Tạng Luật
Vinaya Pitaka
Tiểu Phẩm
Cullavagga
Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiêndịch
----oOo----
TẠNG LUẬT - TIỂU PHẨM
TẬP HAI
Cung kỉnh đức Thế Tôn, bậc A La Hán, đấng Chánh Biến Tri!
V. Chương các Tiểu Sự (Khuddakavatthukkhandhakaṃ)
[1]Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vương Xá (Rājagaha), Trúc lâm (Veluvana), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu vật và giới trẻ ở thôn quê vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự kiện ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại hỏi rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo thuộc nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, việc làm của những kẻ đần độn ấy là không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này các tỷ-kheo, tại sao những kẻ đần độn ấy lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào thân cây trong lúc tắm? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo không nên cọ xát thân hình vào thân cây trong lúc tắm. Vị nào cọ xát thì phạm tội tác ác (dukkata).
[2] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào trụ đá trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào trụ đá trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu vật và giới trẻ ở thôn quê vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. …(như trên)… Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói ...(như trên)..., có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo không nên cọ xát thân hình vào trụ đá trong lúc tắm. Nếu vị nào cọ xát thì phạm tội tác ác (dukkata).
[3] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà trong lúc tắm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại cọ xát thân mình, bắp chân, cánh tay, ngực, và lưng vào tường nhà trong lúc tắm, giống như những võ sĩ đấu vật và giới trẻ ở thôn quê vậy?
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo không nên cọ xát thân hình vào tường nhà trong lúc tắm. Nếu vị nào cọ xát thì phạm tội tác ác (dukkata).
[4] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục sư tắm ở trên một tấm phản sần sùi (atthāne). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. …(như trên) … Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, nghe nói ...(như trên)..., có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm ở trên một tấm phản sần sùi. Vị nào tắm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[5] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tắm với cây kỳ cọ hình giống bàn tay. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. …(như trên)… Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm với cây kỳ cọ hình giống bàn tay. Vị nào tắm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[6] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tắm với chuổi hột chà lưng (kuruvindakasutti). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm với chuổi hột chà lưng. Vị nào tắm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[7] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư bảo vị khác làm sạch bằng cách cọ xát lẫn nhau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bảo vị khác làm sạch bằng cách cọ xát lẫn nhau. Vị nào bảo kẻ khác làm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[8] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tắm với cây chà lưng (mallaka). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tắm với cây chà lưng. Vị nào tắm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[9]Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị bịnh ngoài da. Vị ấy không được thoải mái khi không có cây chà lưng. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép vị bị bệnh dùng cây chà lưng chưa được chế biến.
[10] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo già cả yếu đuối không thể tự kỳ cọ trong khi tắm. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc việc dùng dây vải (ukkāsikaṃ).
[11] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại lúc làm sạch phần lưng. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng tay như thường lệ.
[12] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đeo hoa tai …(như trên)… đeo hoa tai dạng chuổi, đeo xâu chuỗi ở cổ, đeo xâu chuỗi ở hông, đeo vòng, đeo vòng ở ngực, đeo vòng ở tay, đeo nhẫn ở ngón. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. …(như trên)… Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đeo hoa tai …(như trên)… đeo hoa tai dạng chuổi, đeo dây chuổi ở cổ, đeo dây chuổi ở hông, đeo vòng, đeo vòng ở ngực, đeo vòng ở tay, đeo nhẫn ở ngón, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên đeo hoa tai, không nên đeo hoa tai dạng chuổi, không nên đeo dây chuổi ở cổ, không nên đeo dây chuổi ở hông, không nên đeo vòng, không nên đeo vòng ở ngực, không nên đeo vòng ở tay, không nên đeo nhẫn. Vị nào đeo thì phạm tội tác ác (dukkata).
[13] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư để tóc dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên để tóc dài. Vị nào để (tóc dài) thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (để tóc) hai tháng hoặc (để dài) hai lóng tay.
[14] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư chải tóc bằng lược, chải tóc bằng vật giống hình mang rắn, chải tóc bằng tay xoè ra, chải tóc với sáp ong, chải tóc với dầu nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên chải tóc bằng lược, không nên chải tóc bằng vật giống hình mang rắn, không nên chải tóc bằng tay xoè ra, không nên chải tóc với sáp ong, không nên chải tóc với dầu nước. Vị nào chải tóc thì phạm tội tác ác (dukkata).
[15] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nhìn nét mặt ở gương soi, ở trong chậu nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên nhìn nét mặt ở gương soi, ở trong chậu nước. Vị nào nhìn thì phạm tội tác ác (dukkata).
[16] Vào lúc bấy giờ, một tỷ-kheo nọ có vết thương ở mặt. Vị ấy đã hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Các đại đức ơi, vết thương của tôi ra làm sao?
Các tỷ-kheo đã trả lời như sau:
- Này đại đức, vết thương của ngài là như thế đó.
Vị ấy không tin. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, do nhân duyên bệnh, ta cho phép nhìn nét mặt ở gương soi, ở trong chậu nước.
[17] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thoa dầu khuôn mặt, chà xát khuôn mặt, thoa phấn khuôn mặt, tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, vẽ màu ở thân thể, vẽ màu ở mặt, vẽ màu ở thân và mặt. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên thoa dầu khuôn mặt, không nên chà xát khuôn mặt, không nên thoa phấn khuôn mặt, không nên tô điểm mặt bằng bột phấn đỏ, không nên vẽ màu ở thân thể, không nên vẽ màu ở mặt, không nên vẽ màu ở thân và mặt. Vị nào làm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[18] Vào lúc bấy giờ, một tỷ-kheo nọ có bệnh ở mắt. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, do nhân duyên bệnh, ta cho phép thoa dầu khuôn mặt.
[19]Vào lúc bấy giờ, tại thành Vương Xá (Rājagaha) có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại đi xem ca vũ nhạc, giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi xem ca vũ nhạc. Vị nào đi thì phạm tội tác ác (dukkata).
[20] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ngâm nga các bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các sa-môn Thích-tử này ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài cũng giống y như chúng ta ca hát vậy.
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)… có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi thuyết Pháp thoại, ngài đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, có năm điều bất lợi khi ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài: Bản thân vị ấy say đắm trong âm điệu, những kẻ khác say đắm trong âm điệu, hàng tại gia phiền não, trong khi cố tâm theo âm điệu thiền định của vị ấy bị phân tán, điều cuối cùng là dân chúng có kiến thức sai trái. Này các tỷ-kheo, đó năm điều bất lợi khi ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỷ-kheo, không nên ngâm nga bài Pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Vị nào ngâm nga thì phạm tội tác ác (dukkata).
[21] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại trong khi thuyết giảng với giọng có âm điệu. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc thuyết giảng với giọng có âm điệu.
[22] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mặc áo choàng có phủ lông ở phía ngoài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mặc áo choàng có phủ lông phía bên ngoài. Vị nào mặc thì phạm tội tác ác (dukkata).
[23]Vào lúc bấy giờ, trong khu vườn của vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha), xoài đang ra trái. Vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) đã cho phép rằng:
- Hãy để các tôn sư ăn xoài một cách thoải mái.
Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã hái luôn cả xoài non rồi ăn đi. Rồi vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) muốn dùng xoài. Khi ấy, vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) ra lệnh cho các tùy tùng rằng:
- Các khanh, hãy đi đến vườn và mang xoài lại.
- Xin vâng, tâu bệ hạ.
Rồi các tùy tùng nghe lệnh vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) đã đi đến vườn và nói với người giữ vườn rằng:
- Này nhà ngươi, đức vua muốn dùng xoài, nhà ngươi hãy dâng xoài.
- Quý vị ơi, không còn xoài nữa. Các tỷ-kheo đã hái luôn cả xoài non và ăn hết rồi.
Rồi các tùy tùng đã trình sự việc lên vua Seniya Bimbisāra xứ Ma Kiệt Đà (Magadha).
- Này các khanh, xoài đã được các tôn sư thọ dụng ngon lành, tuy nhiên sự tiết độ là điều đã được đức Thế Tôn ngợi khen cơ mà!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử không biết tiết độ lại ăn đi xoài của đức vua vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. …(như trên)… Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên ăn xoài. Vị nào ăn thì phạm tội tác ác (dukkata).
[24] Vào lúc bấy giờ, một nhóm người khác đã dâng thức ăn đến hội chúng. Các miếng xoài đã được trộn vào trong món xúp. Các tỷ-kheo ngần ngại không thọ lãnh. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thọ dụng) xoài miếng.
[25] Vào lúc bấy giờ, một nhóm người khác đã dâng thức ăn đến hội chúng. Họ đã không biết để làm xoài thành miếng. Ở phòng ăn, họ đã dâng các trái xoài hãy còn nguyên vẹn. Các tỷ-kheo ngần ngại không thọ lãnh. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, hãy thọ lãnh và hãy thọ dụng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ dụng trái cây đã được làm cho đúng phép sa-môn theo năm cách: đã được hoại bởi lửa, đã được hoại bởi dao, đã được hoại bởi móng tay, không có hột, và cách thứ năm là hột đã được lấy ra. Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ dụng trái cây đã được làm cho đúng phép sa-môn theo năm cách này.
[26]Vào lúc bấy giờ, một vị tỷ-kheo bị rắn cắn và đã qua đời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, chắc chắn là vị tỷ-kheo ấy đã không rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa rồi. Này các tỷ-kheo, bởi vì nếu vị tỷ-kheo ấy đã rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa rồi, này các tỷ-kheo, do điều ấy vị tỷ-kheo ấy dầu bị rắn cắn cũng không thể chết được. Bốn loài rắn chúa ấy là gì? Loài rắn chúa Virūpakkha, loài rắn chúa Erāpatha, loài rắn chúa Chabyāputta, loài rắn chúa Kanhāgotama. Này các tỷ-kheo, chắc chắn là tỷ-kheo ấy đã không rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này rồi. Này các tỷ-kheo, bởi vì nếu vị tỷ-kheo ấy đã rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này rồi, này các tỷ-kheo, do điều này vị tỷ-kheo ấy dầu bị rắn cắn cũng không thể chết được. Này các tỷ-kheo, ta cho phép rải tâm từ đến bốn loài rắn chúa này nhằm mục đích gìn giữ bản thân, bảo vệ bản thân, và an toàn cho bản thân. Này các tỷ-kheo, nên thực hành như vầy:
[27]
Tôi có tâm từ đối với Virūpakkha;
tôi có tâm từ đối với Erāpatha;
tôi có tâm từ đối với Chabyāputta;
và tôi có tâm từ đối với Kanhāgotamaka.
Tôi có tâm từ đối với loài không chân;
tôi có tâm từ đối với loài hai chân;
tôi có tâm từ đối với loài bốn chân;
tôi có tâm từ đối với loài nhiều chân.
Loài không chân đừng hãm hại tôi;
loài hai chân đừng hãm hại tôi;
loài bốn chân đừng hãm hại tôi;
loài nhiều chân đừng hãm hại tôi.
Hởi tất cả chúng sanh, tất cả sinh vật,
và tất cả mọi sanh linh,
xin tất cả hãy thấy được các điều lành,
chớ để điều gì xấu xa xảy đến.
Đức Phật là vô lượng,
đức Pháp là vô lượng,
đức Tăng là vô lượng,
các loài bò sát (như là)các loài rắn,
bọ cạp, rết, nhện, thằn lằn, chuột là có hạn lượng.
Tôi đã thực hiện các sự bảo vệ,
tôi đã thực hiện sự an toàn,
xin các sanh linh hãy tránh xa.
Giờ tôi đảnh lễ đức Thế Tôn,
đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác.
[28] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị quấy nhiễu bởi sự không được thoải mái đã cắt đi dương vật. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, trong khi điều khác cần được đoạn trừ, kẻ rồ dại ấy lại cắt đi vật khác. Này các tỷ-kheo, không nên cắt đi dương vật của bản thân. Vị nào cắt thì phạm trọng tội (thullaccaya).
[29] Vào lúc bấy giờ, một nhà đại phú ở thành Vương Xá (Rājagaha) có được một khúc gỗ đàn hương thuộc loại đàn hương rất quý giá. Khi ấy, nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã khởi ý rằng:
- Để ta cho đẻo thành cái bình bát với khúc gỗ đàn hương này mới được. Phần gỗ vụn sẽ là sở hữu của ta, còn cái bát ta sẽ cho đi làm quà biếu.
Rồi nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã cho đẻo thành cái bình bát với khúc gỗ đàn hương ấy, buộc với một sợi dây, rồi bảo treo ở trên ngọn một cây tre, xong buộc nhiều cây tre tiếp nối nhau, và nói như vầy:
- Sa-môn hoặc Bà La Môn (Brāhmana) nào chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa thì hãy lấy quà biếu là cái bình bát xuống.
[30] Lúc bấy giờ, Pūrana Kassapa đã đi đến gặp nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha). Đến rồi mới nói với nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) điều này:
- Này gia chủ, ta chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa, ngươi hãy dâng cái bình bát cho ta.
- Bạch đại đức, nếu ngài chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa thì ngài hãy lấy quà biếu là cái bình bát xuống đi.
Rồi Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudho Kaccāyana, Sañcaya Belatthaputta, Nigantha nātaputta [*] đã đi đến gặp nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha). Đến rồi mới nói với nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) điều này:
- Này gia chủ, ta chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa, ngươi hãy dâng cái bình bát cho ta.
- Bạch đại đức, nếu ngài chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa thì ngài hãy lấy quà biếu là cái bình bát xuống đi.
[*] Sáu vị đứng đầu sáu nhóm ngoại đạo thời đó.
[31] Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahāmoggallāna và đại đức Pindolabhāradvāja vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, rồi đi vào thành Vương Xá (Rājagaha) để khất thực. Khi ấy, đại đức Pindolabhāradvāja đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:
- Đại đức Mahāmoggallāna chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa. Này đại đức Mahāmoggallāna, hãy đi và lấy xuống cái bình bát ấy đi. Cái bình bát đó là của đại đức.
Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna cũng đã nói với đại đức Pindolabhāradvāja điều này:
- Đại đức Pindolabhāradvāja chính là vị A La Hán và lại có thần thông nữa. Này đại đức Pindolabhāradvāja, hãy đi và lấy xuống cái bình bát ấy đi. Cái bình bát đó là của đại đức.
Khi đó, đại đức Pindolabhāradvāja đã bay lên không trung, cầm lấy cái bình bát, và đi (trên không) quanh thành Vương Xá (Rājagaha) ba vòng.
[32] Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) cùng vợ và con đang đứng ở sân nhà, hai tay chắp lên trán, thành kính làm lễ:
- Bạch đại đức, xin ngài Bhāradvāja hãy ngự đến nhà của chúng tôi ở ngay chỗ này.
Rồi đại đức Pindolabhāradvāja đã ngự đến nhà của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha). Lúc ấy, nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã nhận lấy cái bình bát từ tay của đại đức Pindolabhāradvāja, chất đầy thức ăn thượng hảo hạng rồi dâng lại cho đại đức Pindolabhāradvāja. Sau đó, đại đức Pindolabhāradvāja đã nhận lại cái bình bát rồi đi về tu viện. Dân chúng đã nghe rằng: "Nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được lấy xuống bởi ngài Pindolabhāradvāja rồi." Các người ấy với âm thanh ồn ào và ầm ĩ đã nối đuôi nhau đi phía sau lưng của đại đức Pindolabhāradvāja. Và đức Thế Tôn đã nghe được âm thanh ồn ào và ầm ĩ; nghe rồi, ngài đã nói với đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, cái âm thanh ồn ào và ầm ĩ đó là chuyện gì vậy?
- Bạch ngài, cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được lấy xuống bởi đại đức Pindolabhāradvāja. Và bạch ngài, dân chúng đã nghe rằng: "Nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được lấy xuống bởi ngài Pindolabhāradvāja rồi." Bạch ngài, các người ấy với âm thanh ồn ào và ầm ĩ đã nối đuôi nhau đi phía sau lưng của đại đức Pindolabhāradvāja. Bạch ngài, bạch Thế Tôn, cái âm thanh ồn ào và ầm ĩ đó là chuyện như thế.
[33] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi đại đức Pindolabhāradvāja rằng:
- Này Bhāradvāja, nghe nói cái bình bát của nhà đại phú thành Vương Xá (Rājagaha) đã được nhà ngươi lấy xuống, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này Bhāradvāja, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này Bhāradvāja, vì sao ngươi lại để lộ pháp thượng nhân tức là sự huyền diệu của phép thần thông trước hàng tại gia vì mục đích là một cái bình bát gỗ tầm thường! Này Bhāradvāja, giống như một người đàn bà cho xem chỗ kín chỉ vì mục đích là một đồng xu tầm thường; cũng y như thế, này Bhāradvāja, chuyện ngươi để lộ ra pháp thượng nhân tức là sự huyền diệu của phép thần thông trước hàng tại gia vì mục đích là một cái bình bát gỗ tầm thường. Này Bhāradvāja, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên để lộ pháp thượng nhân tức là sự huyền diệu của phép thần thông trước hàng tại gia. Vị nào để lộ thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, hãy đập vỡ bình bát ấy, nghiền thành bột vụn, rồi hãy dâng đến các tỷ-kheo làm thuốc thoa mắt. Này các tỷ-kheo, không nên dùng bình bát bằng gỗ. Vị nào dùng thì phạm tội tác ác (dukkata).
[34] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng nhiều bình bát loại đặc biệt: loại làm bằng vàng, loại làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng bình bát làm bằng vàng, không nên sử dụng bình bát làm bằng bạc, không nên sử dụng bình bát làm bằng ngọc ma-ni, không nên sử dụng bình bát làm bằng đá quý, không nên sử dụng bình bát làm bằng pha-lê, không nên sử dụng bình bát làm bằng đồng đỏ, không nên sử dụng bình bát làm bằng thủy tinh, không nên sử dụng bình bát làm bằng thiếc, không nên sử dụng bình bát làm bằng chì, không nên sử dụng bình bát làm bằng đồng thau. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất.
[35]Vào lúc bấy giờ, phần đáy bình bát bị làm trầy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vòng đế bình bát [tức là chân bình bát dạng vòng tròn].
[36] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các vòng đế bình bát loại đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các vòng đế bình bát loại đặc biệt. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép hai loại vòng đế bình bát: loại làm bằng thiếc và loại làm bằng chì.
Những vòng đế dày cộm không giữ yên (bình bát). Các vị đã trình việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đẻo gọt bớt.
Chúng vẫn lỏng chỏng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chẻ răng cá kiếm (cắm vào để giữ bình bát).
[37] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng nhiều loại vòng đế bình bát: loại có tranh vẽ, loại có đắp hình nổi. Các vị đi đó đây phô trương những thứ ấy ở đường phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng nhiều loại vòng đế bình bát: loại có tranh vẽ, loại có đắp hình nổi. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép loại vòng đế bình thường.
[38] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo đem cất bình bát còn nước. Bình bát bị hư hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đem cất bình bát còn nước. Vị nào đem cất thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép đem cất bình bát sau khi phơi nắng.
[39] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đem phơi nắng bình bát còn nước. Bình bát có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đem phơi nắng bình bát còn nước. Vị nào đem phơi nắng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép đem cất bình bát sau khi làm ráo nước và đem phơi nắng.
[40] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo lưu trữ bình bát ở chỗ nóng. Màu sắc của bình bát bị hoại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên lưu trữ bình bát ở chỗ nóng. Vị nào lưu trữ thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép đem cất bình bát sau khi phơi nắng trong một khoảng thời gian ngắn.
[41] Vào lúc bấy giờ, có nhiều bình bát được đặt xuống ở bên ngoài trời không có vật kềm giữ. Các bình bát bị làm quay tròn bởi gió xoáy và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vật kềm giữ bình bát.
[42] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở rìa của băng ghế dài (middhanta). Bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở rìa của băng ghế dài. Vị nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[43] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở mép giường đúc (paribhandanta). Bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở mép giường đúc. Vị nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[44] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo lật úp bình bát ở trên mặt đất. Vành miệng (bình bát) bị trầy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) miếng lót bằng cỏ.
Miếng lót bằng cỏ bị mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) một mảnh vải.
Mảnh vải bị mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bục kê.
Bình bát đã rơi từ bục kê và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giỏ mây chứa bình bát.
Ở trong giỏ mây chứa bình bát, bình bát bị trầy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) túi đựng bát.
Không có dây buộc vai. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây vải làm dây buộc vai.
[45] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo treo bình bát ở chốt đinh gắn trên tường. Bình bát rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên treo bình bát. Vị nào treo thì phạm tội tác ác (dukkata).
[46] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở giường, khi ngồi xuống không nhớ đã đụng và làm vỡ bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở giường. Vị nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[47] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở ghế, khi ngồi xuống không nhớ đã đụng và làm vỡ bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở ghế. Vị nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[48] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở trên bắp vế, khi đứng dậy không nhớ; bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở trên bắp vế. Vị nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[49] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đặt bình bát xuống ở trên cái dù. Cái dù đã bị bật lên vì gió xoáy; bình bát đã rơi xuống và bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đặt bình bát xuống ở trên cái dù. Vị nào đặt xuống thì phạm tội tác ác (dukkata).
[50] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo mở cửa với bình bát ở tay. Cánh cửa quay trở lại khiến bình bát bị vỡ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mở cửa với bình bát ở tay. Vị nào mở cửa thì phạm tội tác ác (dukkata).
[51] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đi khất thực (chứa) bằng bầu đựng nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các vị ngoại đạo vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi khất thực (chứa) bằng bầu đựng nước. Vị nào đi (khất thực như thế) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[52] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đi khất thực (chứa) bằng hũ đựng nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như các vị ngoại đạo vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi khất thực (chứa) bằng hũ đựng nước. Vị nào đi (khất thực như thế) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[53] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo nọ là vị chỉ sử dụng các vật đã bị quăng bỏ (ở bãi tha ma, ở đống rác). Vị ấy mang bình bát của cái sọ người. Một phụ nữ nhìn thấy, hoảng sợ thét lên:
- Gã này đúng là quỷ sứ; làm ta hết hồn!
Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử lại sử dụng bình bát của cái sọ người, giống như kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng bình bát của cái sọ người. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, không nên sinh tồn hoàn toàn chỉ nhờ vào các vật đã bị quăng bỏ. Vị nào sinh tồn (như thế) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[54] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo dùng bình bát để mang đi các đồ thừa thải, xương xóc, và nước cặn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Không lẽ nào các vị sa-môn Thích-tử này lại ăn trong chính cái vật là đồ chứa rác của các vị?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên dùng bình bát để mang đi các đồ thừa thải, xương xóc, hay nước cặn. Vị nào mang đi thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ chứa rác.
[55]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo xé (vải) bằng tay rồi may y ca-sa. Y ca-sa trông không thẩm mỹ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dao nhỏ có vỏ bọc.
[56] Vào lúc bấy giờ, dao có cán đã được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dao có cán.
[57] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các cán dao loại đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các cán dao loại đặc biệt. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.
[58] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo may y ca-sa bằng lông gà và lạt tre. Y ca-sa được may vụng về. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) kim khâu.
Các cây kim khâu trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ống đựng kim khâu.
Trong ống đựng kim khâu, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đựng với bột phấn.
Dù (đựng) trong bột phấn, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đựng với bột nghệ.
Dù (đựng) trong bột nghệ, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đựng với bột đá.
Dù (đựng) trong bột đá, các cây kim cũng trở nên cùn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trộn với mật và sáp ong.
Chất hỗn hợp bị tách rời nhau.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hộp nhỏ chứa hỗn hợp ấy.
[59] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo cắm cọc ở các nơi, buộc (vải) lại với nhau rồi may y. Y không được vuông vức. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tấm y mẫu (kathina) và sau khi buộc dây của tấm y mẫu vào chỗ này chỗ kia rồi mới may y.
Các vị đã trải tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng. Tấm y mẫu bị rời ra. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên căng tấm y mẫu ở chỗ không bằng phẳng. Vị nào căng thì phạm tội tác ác (dukkata).
Các vị đã trải tấm y mẫu ở trên mặt đất. Tấm y mẫu bị dơ. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thảm cỏ.
Khu vực ở giữa sườn bị thụng xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép căng dây dọc theo chiều gió.
Tấm y mẫu không đạt kích thước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cọc căng, cây dùi, que gỗ, dây buộc, chỉ khâu, kết lại trước rồi may y.
Khoảng cách ở giữa các đoạn chỉ khâu không đều nhau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc làm dấu bằng mực.
Các đường chỉ bị cong quẹo. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc khâu chỉ may làm dấu.
[60] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bước lên tấm y mẫu với bàn chân chưa rửa. Tấm y mẫu bị hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên tấm y mẫu với bàn chân chưa rửa. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[61] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bước lên tấm y mẫu với bàn chân đẫm nước. Tấm y mẫu bị hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên tấm y mẫu với bàn chân đẫm nước. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[62] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo mang giày dép bước lên tấm y mẫu. Tấm y mẫu bị hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mang giày dép bước lên tấm y mẫu. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[63] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo dùng ngón tay (cầm kim) khi may y. Các ngón tay bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vật bao ngón tay (khi may vá).
[64]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các vật bao ngón tay loại đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các vật bao ngón tay loại đặc biệt. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm bằng xương, …(như trên)… làm bằng vỏ sò.
[65] Vào lúc bấy giờ, những cây kim, những con dao, luôn cả những vật bao ngón tay bị thất lạc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa ở chỗ làm. Những vật trên bị lẫn lộn trong thùng chứa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bao để đựng vật bao ngón tay.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai là chỉ thắt lại.
[66] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi may y ở ngoài trời đã bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nhà may y hoặc mái che tạm để may y.
Nhà may y có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[67] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà may y. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và (và làm các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[68] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi may y xong đã bỏ bê tấm y mẫu rồi ra đi. Tấm y mẫu bị các con chuột và mối ăn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép gấp tấm y mẫu lại.
Tấm y mẫu bị rời ra thành mảnh. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép gấp tấm y mẫu lại bằng tấm da bò (gogham-sika).
Tấm y mẫu bị bung ra. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dây buộc lại.
[69] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi đưa tấm y mẫu lên cất ở trên vách tường hoặc ở trên cột nhà rồi ra đi. Tấm y mẫu bị rơi xuống và bị rời ra thành miếng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép treo lên ở đinh gắn ở tường hoặc ở cái móc.
[70] Rồi đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Vương Xá (Rājagaha) được như ý đã lên đường đi đến Vesāli. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đã dùng bát chứa đựng kim, dao nhỏ, và thuốc men rồi ra đi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) túi đựng thuốc men.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai làm bằng chỉ thắt lại.
[71] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo buộc đôi dép lại bằng dây thắt lưng rồi vào làng khất thực. Một cận sự nam khi đảnh lễ tỷ-kheo ấy bị đôi dép chạm vào đầu. Tỷ-kheo ấy đã xấu hổ. Rồi khi đến tu viện tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) túi mang dép.
Dây mang vai không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây mang vai làm bằng chỉ thắt lại.
[72] Vào lúc bấy giờ, trên đường đi nước không được làm cho đúng luật (akappiyaṃ). Đồ lược nước không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước.
Mảnh vải lược không có hiệu quả. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ lược nước gắn ở gáo múc.
Mảnh vải lược không có hiệu quả. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm theo thông lệ.
[73] Vào lúc bấy giờ, có hai tỷ-kheo đang đi đường xa trong xứ Kosaka. Một tỷ-kheo thường thực hành điều không tốt đẹp. Vị tỷ-kheo thứ hai đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:
- Này sư đệ, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.
Vị tỷ-kheo ấy đã sanh ác cảm với vị kia (về sự phê bình). Sau đó, vị kia, bị khó chịu vì khát nước, đã nói với vị tỷ-kheo đang mang mối ác cảm rằng:
- Này sư đệ, hãy đưa tôi đồ lược nước, tôi sẽ uống nước.
Do ác cảm, vị tỷ-kheo ấy đã không đưa cho. Vị tỷ-kheo bị khó chịu vì khát nước đã chết đi. Rồi vị tỷ-kheo ấy đã đi đến tu viện và trình sự việc ấy đến các tỷ-kheo.
- Này sư đệ, không lẽ sư đệ không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước hay sao?
- Bạch đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn,…(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước?
Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[74] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi vị tỷ-kheo ấy rằng:
- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại kia, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này kẻ rồ dại kia, vì sao ngươi lại không đưa cho khi được hỏi mượn đồ lược nước vậy? Này kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, khi vị tỷ-kheo đi đường xa hỏi mượn đồ lược nước, không thể không cho. Vị nào không cho thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, không có đồ lược nước đi đường xa là điều không nên thực hành. Vị nào thực hành thì phạm tội tác ác (dukkata). Nếu không có đồ lược nước hoặc đồ lược theo thông lệ, có thể chú nguyện chéo y hai lớp (saṅghāti):
- Tôi sẽ uống sau khi lược nước bằng vật này.
[75] Rồi đức Thế Tôn tiếp tục du hành, lần lượt đã ngự đến Vesālī. Ở đó, trong xứ Vesālī, đức Thế Tôn ngụ tại Đại Lâm (Mahāvana) giảng đường Kūtāgāra.
[76] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đang bận việc xây dựng. Đồ lược nước không làm trong (nước) được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đồ lược nước hai lớp.
Đồ lược nước hai lớp không làm trong (nước) được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bể lọc nước (ottharakaṃ).
[77] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bị khuấy rối bởi các con muỗi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lều chống muỗi.
[78] Vào lúc bấy giờ, ở xứ Vesālī, các bữa ăn ngon được luân phiên dâng cúng. Các tỷ-kheo ăn thức ăn ngon nên cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều chứng bệnh. Khi ấy, (thầy thuốc) Jīvaka Komārabhacca đã đến Vesālī do một công việc cần làm gì đó. Jīvaka Komārabhacca đã chứng kiến các tỷ-kheo có cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều chứng bệnh. Thấy vậy, Jīvaka Komārabhacca đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, giờ đây các tỷ-kheo có cơ thể bị tiêu chảy và sanh nhiều chứng bệnh. Tốt thay, bạch ngài, xin đức Thế Tôn cho phép các tỷ-kheo (sử dụng) lối đi kinh hành và phòng tắm hơi; như thế, các tỷ-kheo sẽ bớt bệnh hoạn.
Khi đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Và Jīvaka Komārabhacca sau khi được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[79] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lối đi kinh hành và phòng tắm hơi.
[80] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đi kinh hành trên lối đi kinh hành không được bằng phẳng. Chân (các vị) bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm cho bằng phẳng.
[81] Lối đi kinh hành có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[82] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo khi đi kinh hành ở lối đi kinh hành bị té. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tay vịn ở lối đi kinh hành.
[83] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo khi đi kinh hành ở ngoài trời đã bị mệt vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nhà đi kinh hành.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà đi kinh hành. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và và làm (các công việc): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[84] Phòng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Phòng tắm hơi không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.
Chân tường của phòng tắm hơi bị hư hỏng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây mô tròn.
Phòng tắm hơi không có ống thông khói.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) ống thông khói.
[85] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo làm chỗ đốt lửa ở giữa phòng tắm hơi có khuôn viên hẹp. Lối đi lại không có. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm chỗ đốt lửa ở một bên trong phòng tắm hơi có khuôn viên hẹp, ở giữa (phòng tắm hơi) có khuôn viên rộng.
Trong phòng tắm hơi, ngọn lửa làm phỏng mặt (các tỷ-kheo). …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đất sét (bôi) ở mặt.
Các vị bị nhão nhẹt đất sét ở tay. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) chậu đựng đất sét.
Đất sét có mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ủ (đất sét).
[86] Vào lúc bấy giờ, ở trong phòng tắm hơi, ngọn lửa làm phỏng thân mình (các tỷ-kheo). …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tưới đẫm nước (lên thân).
Các vị tưới đẫm nước (lên thân) bằng nắp bình bát và bằng bình bát. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vại chứa nước (và) gáo múc nước.
Phòng tắm hơi lợp cỏ không làm tiết ra mồ hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và tô vữa ở trong và ở ngoài.
Phòng tắm hơi bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền bằng gạch, nền bằng đá, nền bằng gỗ.
(Phòng tắm hơi) vẫn còn bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép lau sạch.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[87] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngồi trệt trên nền nhà trong phòng tắm hơi, tay chân bị trầy trụa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế ngồi ở phòng tắm hơi.
[88] Vào lúc bấy giờ, phòng tắm hơi không được rào lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
Không có cổng ra vào …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cổng ra vào.
Cổng ra vào có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Cổng ra vào không có cửa. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.
[89] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi ở cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phủ cát lên.
Các vị không thành công. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[90] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo (lúc đang) ở trần đảnh lễ vị tỷ-kheo ở trần, (lúc đang) ở trần đảnh lễ vị không ở trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị khác) đảnh lễ vị ở trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị khác) đảnh lễ vị không ở trần, (lúc đang) ở trần phục vụ vị ở trần, (lúc đang) ở trần phục vụ vị không ở trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị khác) phục vụ vị ở trần, (lúc đang) ở trần bảo (vị khác) phục vụ vị không ở trần, (lúc đang) ở trần dâng đồ cho vị ở trần, thọ nhận (lúc đang) ở trần, nhai thức ăn (lúc đang) ở trần, thọ dụng thức ăn (lúc đang) ở trần, ngủ (lúc đang) ở trần, uống (lúc đang) ở trần. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, (lúc đang) ở trần không nên đảnh lễ vị ở trần, (lúc đang) ở trần không nên đảnh lễ, (lúc đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh lễ vị ở trần, (lúc đang) ở trần không nên bảo (vị khác) đảnh lễ, (lúc đang) ở trần không nên phục vụ vị ở trần, (lúc đang) ở trần không nên bảo (vị khác) phục vụ, (lúc đang) ở trần không nên dâng đồ cho vị ở trần, không nên thọ nhận (lúc đang) ở trần, không nên nhai thức ăn (lúc đang) ở trần, không nên thọ dụng thức ăn (lúc đang) ở trần, không nên ngủ (lúc đang) ở trần, không nên uống (lúc đang) ở trần. Vị nào uống (lúc đang ở trần) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[91] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo để y ca-sa xuống trên nền nhà trong phòng tắm hơi. Y ca-sa bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y.
Lúc trời mưa, mưa rơi ở trên y ca-sa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) gian nhà lớn ở phòng tắm hơi.
Gian nhà lớn ở phòng tắm hơi có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng… (như trên)…
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[92] Vào lúc bấy giờ, rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong phòng tắm hơi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc): tô vữa ở trong và ở ngoài …(như trên)… sào máng y, dây treo y.
[93] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại khi làm công việc kỳ cọ lưng ở trong phòng tắm hơi, ở trong hồ nước. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại tấm choàng: tấm choàng ở phòng tắm hơi, tấm choàng ở trong nước, và tấm choàng bằng vải.
[94] Vào lúc bấy giờ, trong phòng tắm hơi không có nước. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giếng nước.
Thành giếng bị sụp đổ. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại thành giếng: thành giếng bằng gạch, thành giếng bằng đá, thành giếng bằng gỗ.
Giếng nước có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang)…(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[95]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo kéo nước lên bằng dây rừng, bằng dây buộc thân. Các vị đã trình sự việc lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dây thừng để kéo nước.
Hai bàn tay bị đau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cần giọt, cần trục quay, bánh xe ròng rọc.
Các thùng (kéo nước) bị bể nhiều. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại gàu (kéo nước): gàu bằng thiếc, gàu bằng gỗ, gàu làm bằng các sợi da thuộc.
[96] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi kéo nước ở ngoài trời đã bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) gian nhà ở giếng.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong gian nhà ở giếng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[97] Vào lúc bấy giờ, giếng không được che đậy khiến rác cỏ, bụi bặm, và đất cát rơi vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nắp đậy.
[98] Đồ đựng nước không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) máng đựng nước, chậu đựng nước.
[99] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo tắm ở nơi này nơi kia trong khuôn viên tu viện. Khuôn viên tu viện trở nên lầy lội. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) hồ nước (để tắm).
Hồ tắm quá trống trải. Các tỷ-kheo mắc cở khi tắm. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh lại (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
Hồ tắm bị lầy lội. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép lót nền bằng ba loại nền: nền bằng gạch, nền bằng đá, nền bằng gỗ.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
[100] Vào lúc bấy giờ, thân thể của các tỷ-kheo bị lạnh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc làm ráo nước bằng cách lau khô với một miếng vải.
[101] Vào lúc bấy giờ, có vị cận sự nam muốn làm một hồ trữ nước để đem lại sự ích lợi cho hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) hồ trữ nước.
Thành của hồ trữ nước bị sụp đổ. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại thành (của hồ trữ nước): thành bằng gạch, thành bằng đá, thành bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nước trong hồ trữ nước bị ôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc tháo nước ra làm nước tưới.
[102] Vào lúc bấy giờ, có vị cận sự nam muốn tự tay thực hiện một phòng tắm hơi có mái vòng cung (nillekhaṃ) để đem lại sự ích lợi cho hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) phòng tắm hơi có mái vòng cung.
[103] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lìa xa toạ cụ trong bốn tháng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên lìa xa toạ cụ trong bốn tháng. Vị nào lìa xa (toạ cụ) thì phạm tội tác ác (dukkata).
[104] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ngủ trên những cái giường có rãi hoa. Dân chúng khi đi dạo quanh tu viện thấy thế đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như người tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên ngủ trên những cái giường có rãi hoa. Vị nào ngủ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[105] Vào lúc bấy giờ, dân chúng đi đến tu viện mang theo dầu thơm và vòng hoa. Các tỷ-kheo ngần ngại không thọ lãnh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép sau khi nhận dầu thơm rồi thì in dấu năm ngón tay lên cửa (kavāte pañcaṅgulikam- dātuṃ) và sau khi nhận hoa rồi thì đem đặt ở một góc trong trú xá.
[106] Vào lúc bấy giờ, một thảm len đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thảm len.
Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý như vầy: "Thảm len nên được chú nguyện để dùng riêng (adhitthātabbaṃ) hay chú nguyện để dùng chung (vikappeti)?" …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, thảm len không nên được chú nguyện để dùng riêng hay chú nguyện để dùng chung.
[107] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ăn ở trên ghế trường kỷ được chạm trổ (āsittakupadhāne). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống người tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên ăn ở trên ghế trường kỷ được chạm trổ. Vị nào ăn thì phạm tội tác ác (dukkata).
[108] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo bị bệnh. Vị ấy trong khi ăn không thể kềm giữ bình bát bằng tay được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giá đỡ bình bát (malorikaṃ).
[109] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cùng ăn trong một đĩa, cùng uống trong một cốc, cùng nằm trên một giường, cùng nằm trên một nệm, cùng nằm trên một khăn trải, cùng nằm trên một nệm có trải khăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như người tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên cùng ăn trong một đĩa, không nên cùng uống trong một cốc, không nên cùng nằm trên một giường, không nên cùng nằm trên một nệm, không nên cùng nằm trên một khăn trải, không nên cùng nằm trên một nệm có trải khăn. Vị nào nằm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[110] Vào lúc bấy giờ, Vaddha Licchavī là đạo hữu của các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka. Khi ấy, Vaddha Licchavī đi đến gặp các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka, đến rồi đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Tôi xin chào các ngài.
Khi được nói vậy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka không trả lời. Lần thứ nhì, Vaddha Licchavī đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Tôi xin chào các ngài.
Lần thứ nhì, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka không trả lời. Lần thứ ba, Vaddha Licchavī đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka rằng:
- Tôi xin chào các ngài.
Lần thứ ba, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka không trả lời.
- Tôi làm điều gì phật lòng các ngài? Vì lẽ gì mà các ngài không trả lời tôi?
- Bởi vì như vầy, này đạo hữu Vaddha, trong khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta gây bực bội thì ngươi vẫn dửng dưng.
- Thưa các ngài, vậy tôi làm gì đây?
- Này đạo hữu Vaddha, nếu ngươi chịu làm thì ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất đại đức Dabba Mallaputta.
- Thưa các ngài, tôi làm được gì? Tôi có khả năng làm gì đây?
- Hãy đến đây, này đạo hữu Vaddha, ngươi hãy đi đến gặp đức Thế Tôn. Đến rồi, ngươi hãy bạch đức Thế Tôn như vầy: "Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; vợ con đã bị đại đức Dabba Mallaputta làm ô nhục."
- Xin vâng, thưa các ngài.
Rồi Vaddha Licchavī nghe lời các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Vaddha Licchavī đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; vợ con đã bị đại đức Dabba Mallaputta làm ô nhục.
[111] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều vị Vaddha này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
Lần thứ nhì, đức Thế Tôn …(như trên)…
Lần thứ ba, đức Thế Tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:
- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều vị Vaddha này vừa nói không?
- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế Tôn biết rõ mà.
- Này Dabba, giòng họ Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy nói: "Có làm;" nếu không làm, hãy nói: "Không làm."
- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.
[112] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như thế thì hội chúng hãy úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, hãy thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng.
[113] Này các tỷ-kheo, bình bát nên được úp ngược đối với vị cận sự nam biểu hiện tám điều: vị ấy ra sức làm cho các tỷ-kheo không được lợi lộc, vị ấy ra sức làm cho các tỷ-kheo không được sự lợi ích, vị ấy ra sức làm cho các tỷ-kheo không có chỗ ngụ, vị ấy mắng nhiếc gièm pha các tỷ-kheo, vị ấy chia rẽ các tỷ-kheo (này) với các tỷ-kheo (khác), vị ấy phỉ báng Phật, vị ấy phỉ báng Pháp, vị ấy phỉ báng Tăng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép úp ngược bình bát đối với vị cận sự nam biểu hiện tám điều này.
Và này các tỷ-kheo, nên úp ngược (bình bát) như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
[114] Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vaddha Licchavī bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta có sự hư hỏng về giới không có cơ sở. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, và thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vaddha Licchavī bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta có sự hư hỏng về giới không có cơ sở. Hội chúng úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, và thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng. Đại đức nào thỏa thuận với việc úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, và việc thực thi (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Bình bát đã được úp ngược bởi hội chúng đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[115] Sau đó, đại đức Ānanda vào buổi sáng mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của Vaddha Licchavī; đến rồi đã nói với Vaddha Licchavī điều này:
- Này đạo hữu Vaddha, hội chúng đã úp ngược bình bát đối với ngươi và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi) đối với ngươi.
Khi ấy, Vaddha Licchavī (biết rằng): "Vậy là hội chúng đã úp ngược bình bát đối với ta và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi) đối với ta" nên đã choáng váng và ngã xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, bạn bè thân hữu, thân quyến ruột thịt của Vaddha Licchavī đã nói với Vaddha Licchavī rằng:
- Được rồi, này đạo hữu Vaddha, chớ có than van, chớ có rên rỉ. Chúng tôi sẽ làm cho đức Thế Tôn và hội chúng tỷ-kheo dịu lại.
Sau đó, Vaddha Licchavī tẩm ướt y phục và đầu tóc cùng với vợ con, bạn bè thân hữu, và thân quyến ruột thịt đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi đã đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và nói điều này:
- Bạch ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy con vì con là kẻ đần độn, ngu si, không có đạo đức khi con bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có cơ sở. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn ghi nhận sự sai trái trong tội lỗi ấy của con hầu để ngăn ngừa trong tương lai.
- Đúng như vậy, này đạo hữu Vaddha, tội lỗi đã chiếm ngự lấy ngươi vì ngươi là kẻ đần độn, ngu si, không có đạo đức khi ngươi bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta có sự hư hỏng về giới không có cơ sở. Chính từ việc đó, này đạo hữu Vaddha, ngươi đã thấy được sự sai trái trong tội lỗi và chừa cải đúng theo Pháp, nay chúng ta nhận biết điều ấy cho ngươi. Này đạo hữu Vaddha, điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: "Người nào sau khi thấy được sự sai trái trong tội lỗi và chừa cải đúng theo Pháp sẽ thực hành sự ngăn ngừa trong tương lai."
[116] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, vì việc này hội chúng hãy mở bình bát đối với Vaddha Licchavī, hãy thực thi (pháp) đồng lợi hành với hội chúng. Này các tỷ-kheo, bình bát nên được mở ra đối với vị cận sự nam biểu hiện tám điều: vị ấy không ra sức làm cho các tỷ-kheo không được lợi lộc, vị ấy không ra sức làm cho các tỷ-kheo không được sự lợi ích, vị ấy không ra sức làm cho các tỷ-kheo không có chỗ ngụ, vị ấy không mắng nhiếc gièm pha các tỷ-kheo, vị ấy không chia rẽ các tỷ-kheo (này) với các tỷ-kheo (khác), vị ấy không phỉ báng Phật, vị ấy không phỉ báng Pháp, vị ấy không phỉ báng Tăng. Này các tỷ-kheo, ta cho phép mở bình bát đối với vị cận sự nam biểu hiện tám điều này.
[117] Và này các tỷ-kheo, nên mở ra như vầy: Này các tỷ-kheo, Vaddha Licchavī ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên bạch như vầy:
- Bạch các ngài, hội chúng đã úp ngược bình bát đối với con, và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi) đối với con. Con làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ con cầu xin hội chúng mở lại bình bát.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
[118] - Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng đã úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi). Nay vị ấy thực hành đúng đắn, vị ấy biết sửa đổi, vị ấy không tái phạm, vị ấy cầu xin hội chúng mở lại bình bát. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên mở lại bình bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) đồng lợi hành với hội chúng nên được thực thi. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng đã úp ngược bình bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) không đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi). Nay vị ấy thực hành đúng đắn, vị ấy biết sửa đổi, vị ấy không tái phạm, vị ấy cầu xin hội chúng mở lại bình bát. Hội chúng mở lại bình bát đối với Vaddha Licchavī và thực thi (pháp) đồng lợi hành với hội chúng. Đại đức nào thỏa thuận với việc mở lại bình bát đối với Vaddha Licchavī và việc thực thi (pháp) đồng lợi hành với hội chúng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Hội chúng đã mở lại bình bát đối với Vaddha Licchavī, và (pháp) đồng lợi hành với hội chúng (đã được thực thi). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[119]Rồi đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Vesālī được như ý đã lên đường đi đến xứ Bhaggā. Tuần tự du hành, ngài đã ngự đến Bhaggā. Ở đó, trong xứ Bhaggā, đức Thế Tôn ngụ tại Susumāragira nơi vườn nai trong khu rừng Bhesakalā.
[120] Vào lúc bấy giờ, lâu đài tên Kokanada của vương tử Bodhi vừa mới được xây dựng xong không lâu lắm, chưa có sa-môn, Bà La Môn, hay bất cứ người nào vào cư ngụ. Khi ấy, vương tử Bodhi đã nói với chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng:
- Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy lại đây. Bạn hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi hãy đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn nhân danh ta hỏi thăm xem thân thể (đức Thế Tôn) có được cường tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống có an lạc không (như vầy): "Bạch ngài, vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn, và hỏi thăm thân thể (ngài) có được cường tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống an lạc không?" Và bạn hãy nói như vầy: "Bạch đức Thế Tôn, cầu xin ngài cùng với hội chúng tỷ-kheo nhận lời thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi."
- Xin vâng, thưa ngài.
Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā vâng lời vương tử Bodhi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã bày tỏ sự thân thiện đối với đức Thế Tôn, trao đổi lời chào hỏi cần thiết, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, chàng thanh niên con trai bà Sañjikā đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm thân thể (ngài) có được cường tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống an lạc không? Và bảo nói như vầy: "Cầu xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỷ-kheo nhận lời thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi."
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nhận biết sự bằng lòng của đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi về lại chỗ vương tử Bodhi và nói với vương tử Bodhi như vầy:
- Chúng tôi đã bạch ngài Gotama ấy với lời nói của ngài là: "Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm thân thể (ngài) có được cường tráng, ít bệnh, ít đau, sức khoẻ, sống an lạc không?" Và bảo nói như vầy: "Cầu xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỷ-kheo nhận lời thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi." Và sa-môn Gotama đã nhận lời.
[121] Rồi khi đêm ấy qua đi, vương tử Bodhi đã cho chuẩn bị vật thực thượng hạng cứng mềm rồi ra lệnh trải vải trắng ở lâu đài Kokanada cho đến tận bậc cấp ở ngoài cùng, xong bảo chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng:
- Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy lại đây. Bạn hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi hãy thông báo thời giờ cho đức Thế Tôn hay rằng: "Bạch ngài, đã đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong."
- Xin vâng, thưa ngài.
Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā vâng lời vương tử Bodhi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi đã thông báo thời giờ cho đức Thế Tôn hay rằng:
- Bạch ngài Gotama, đã đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong.
[122] Sau đó, đức Thế Tôn vào buổi sáng sau khi mặc y, cầm y bát đã đi đến trú xá của vương tử Bodhi. Vào lúc bấy giờ, vương tử Bodhi đang đứng ở mái che của cổng ngoài chờ đợi đức Thế Tôn ngự đến. Rồi vương tử Bodhi đã nhận thấy đức Thế Tôn đang đi đến từ đàng xa. Thấy rồi, vương tử Bodhi đã từ chỗ ấy đi ra đảnh lễ và tôn vinh đức Thế Tôn xong đi đến lâu đài Kokanada. Khi ấy, đức Thế Tôn đã đứng lại cạnh bậc cấp ở ngoài cùng. Và vương tử Bodhi đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên tấm vải, xin đấng Thiện Thệ hãy bước lên tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Nghe nói vậy đức Thế Tôn vẫn im lặng.
Đến lần thứ nhì, …(như trên)…
Đến lần thứ ba, vương tử Bodhi đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên tấm vải, xin đấng Thiện Thệ hãy bước lên tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã ra hiệu bằng mắt cho đại đức ānanda. Khi ấy, đại đức Ānanda đã nói với vương tử Bodhi điều này:
- Thưa vương tử, xin hãy gấp tấm vải lại. Đức Thế Tôn sẽ không bước lên tấm vải được trải ra. Đấng Như Lai luôn có lòng thương tưởng đến chúng sanh cùng khổ.
Sau đó, vương tử Bodhi đã bảo gấp lại các tấm vải và cho sắp đặt chỗ ngồi ở trên lầu lâu đài Kokanada. Và đức Thế Tôn đã bước lên lâu đài Kokanada rồi ngồi xuống chỗ ngồi đã được sắp đặt cùng với hội chúng tỷ-kheo.
Rồi vương tử Bodhi đã tự tay làm cho hội chúng tỷ-kheo có đức Phật dẫn đầu được hài lòng, được đầy đủ bằng thức ăn thượng hạng cứng mềm, rồi đã (đến) ngồi xuống một bên đức Thế Tôn khi ấy đã thọ thực xong, bàn tay và bình bát đã được rửa. Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vương tử Bodhi đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại rồi từ chỗ ngồi đã đứng dậy và ra đi.
[123] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy sau khi thuyết Pháp thoại đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên những tấm vải được trải ra. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[124] Vào lúc bấy giờ, có một phụ nữ bị sẩy thai đã thỉnh các tỷ-kheo đến rồi trải ra một tấm vải và bạch điều này:
- Bạch các ngài, xin các ngài hãy bước lên tấm vải.
Các tỷ-kheo ngần ngại đã không bước lên.
- Bạch các ngài, xin các ngài hãy bước lên tấm vải để đem lại sự may mắn.
Các tỷ-kheo ngần ngại đã không bước lên.
Khi đó, người phụ nữ ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các đại đức khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn lại không bước lên tấm vải được trải ra?
Các tỷ-kheo đã nghe người phụ nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, gia chủ tin vào sự may mắn. Này các tỷ-kheo, ta cho phép bước lên tấm vải được trải ra khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn.
[125] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại không dám bước lên tấm vải chùi chân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bước lên tấm vải chùi chân.
Dứt Tụng phẩm thứ nhì.
----oOo----
Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)
Source:
Trình bày: Nhị Tường