Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần [07]

22/04/201317:51(Xem: 4408)
Phần [07]


Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Tiểu Phẩm
Cullavagga

Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiêndịch

----oOo----

IV. Chương Dàn Xếp (Samathakkhandhakaṃ)

1. Hành xử Luật với sự hiện diện (Sammukhāvinayo):

[585] Thuở ấy, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo. đối với các vị tỷ-kheo không có hiện diện. Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo. đối với các tỷ-kheo không có hiện diện?

Sau đó, các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo đối với các tỷ-kheo không có hiện diện, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Đức Phật Thế-tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, việc làm của những kẻ rồ dại ấy là không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, là sai trái, không nên làm. Này các tỷ-kheo, tại sao những kẻ rồ dại ấy lại thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo đối với các tỷ-kheo không có hiện diện? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, không nên thực thi hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, án treo đối với các tỷ-kheo không có hiện diện. Vị nào thực thi thì phạm tội tác ác (dukkata).

[586] Một người nói sai Pháp, nhiều người nói sai Pháp, hội chúng nói sai Pháp. Một người nói đúng Pháp, nhiều người nói đúng Pháp, hội chúng nói đúng Pháp.

[587] Một người nói sai Pháp thuyết phục một người nói đúng Pháp, khiến cho (người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Một người nói sai Pháp thuyết phục nhiều người nói đúng Pháp, khiến cho (nhiều người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Một người nói sai Pháp thuyết phục hội chúng nói đúng Pháp, khiến cho (hội chúng nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Nhiều người nói sai Pháp thuyết phục một người nói đúng Pháp, khiến cho (người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Nhiều người nói sai Pháp thuyết phục nhiều người nói đúng Pháp, khiến cho (nhiều người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Nhiều người nói sai Pháp thuyết phục hội chúng nói đúng Pháp, khiến cho (hội chúng nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Hội chúng nói sai Pháp thuyết phục một người nói đúng Pháp, khiến cho (người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Hội chúng nói sai Pháp thuyết phục nhiều người nói đúng Pháp, khiến cho (nhiều người nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Hội chúng nói sai Pháp thuyết phục hội chúng nói đúng Pháp, khiến cho (hội chúng nói đúng Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết không đúng Pháp theo hình thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Dứt Chín trường hợp của nửa phần tối.

[588] Một người nói đúng Pháp thuyết phục một người nói sai Pháp, khiến cho (người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Một người nói đúng Pháp thuyết phục nhiều người nói sai Pháp, khiến cho (nhiều người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Một người nói đúng Pháp thuyết phục hội chúng nói sai Pháp, khiến cho (hội chúng nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Nhiều người nói đúng Pháp thuyết phục một người nói sai Pháp, khiến cho (người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Nhiều người nói đúng Pháp thuyết phục nhiều người nói sai Pháp, khiến cho (nhiều người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Nhiều người nói đúng Pháp thuyết phục hội chúng nói sai Pháp, khiến cho (hội chúng nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Hội chúng nói đúng Pháp thuyết phục một người nói sai Pháp, khiến cho (người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Hội chúng nói đúng Pháp thuyết phục nhiều người nói sai Pháp, khiến cho (nhiều người nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Hội chúng nói đúng Pháp thuyết phục hội chúng nói sai Pháp, khiến cho (hội chúng nói sai Pháp) nhận thức được, khiến cho thấy được, khiến cho thấy rõ, khiến cho hiểu được, khiến cho hiểu rõ: "Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hãy chọn lấy điều này, hãy chấp nhận điều này." Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.

Dứt Chín trường hợp của nữa phần sáng.

2. Hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (Sativinayo):

[589] Thuở ấy, đức Phật Thế Tôn ngự tại Rājagaha, Trúc Lâm (Veluvana), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, phẩm vị A La Hán đã được đại đức Dabba Mallaputta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Vị ấy đã thành đạt tất cả những gì một vị đệ tử cần chứng đạt. Và vị ấy không còn bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc thêm vào (các việc) vị ấy đã làm.

[590] Khi ấy, trong khi an trú thiền ở nơi thanh vắng, một ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi đến đại đức Dabba Mallaputta: "Phẩm vị A La Hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì một vị đệ tử cần chứng đạt. Và ta không còn bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc thêm vào (các việc) ta đã làm. Vậy ta nên thực hiện phận sự gì cho hội chúng?" Rồi điều này đã khởi đến cho đại đức Dabba Mallaputta: "Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?"

[591] Sau đó, vào buổi tối, đại đức Dabba Mallaputta đã xuất thiền và đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đã bạch với đức Thế Tôn rằng:

- Bạch ngài, ở nơi đây, khi an trú thiền ở nơi thanh vắng, một ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi đến con: "Phẩm vị A La Hán đã được ta chứng đạt vào lúc bảy tuổi. Ta đã thành đạt tất cả những gì một vị đệ tử cần chứng đạt. Và ta không còn bất cứ việc gì cao thượng hơn cần phải làm hoặc thêm vào (các việc) ta đã làm. Vậy ta nên thực hiện phận sự gì cho hội chúng?" Rồi bạch ngài, điều này đã khởi đến cho con: "Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?" Bạch ngài con muốn phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.

- Này Dabba, tốt lắm, tốt lắm! Này Dabba, như vậy thì ngươi hãy phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp bữa ăn cho hội chúng.

- Thưa vâng, bạch ngài. Đại đức Dabba Mallaputta đã trả lời đức Thế Tôn.

[592] Rồi đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, hội chúng hãy chỉ định Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, Dabba cần được yêu cầu. Sau khi đã yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Đại đức Dabba Mallaputta đã được hội chúng chỉ định là vị phân bố chỗ ngụ và là vị sắp xếp bữa ăn. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[593] Và khi đã được chỉ định, đại đức Dabba Mallaputta đã phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo cùng nhóm. Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo chuyên về Kinh (nghĩ rằng): "Các vị sẽ tụng đọc Kinh với nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo thông thạo về Luật (nghĩ rằng): "Các vị sẽ xác định Luật với nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo chuyên giảng Pháp (nghĩ rằng): "Các vị sẽ thảo luận về Pháp với nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo chuyên thiền định (nghĩ rằng): "Các vị sẽ không quấy rầy lẫn nhau." Vị ấy phân bố chỗ ngụ chung một khu vực cho các tỷ-kheo chuyên nói chuyện thế tục, sinh hoạt có nhiều sự năng động về thân (nghĩ rằng): "Các đại đức này cũng sẽ yên ổn với thú vui ấy." Đối với các tỷ-kheo đi đến vào buổi tối, vị ấy đã nhập thiền đề mục ánh sáng và đã phân bố chỗ ngụ với chính ánh sáng ấy; cho nên các tỷ-kheo cố ý đi đến vào buổi tối (nghĩ rằng): "Chúng ta sẽ chứng kiến sự kỳ diệu về thần thông của đại đức Dabba Mallaputta." Sau khi đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, các vị ấy nói như vầy:

- Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ cho chúng tôi.

Đại đức Dabba Mallaputta đã nói với các vị ấy rằng:

- Các đại đức thích chỗ nào? Tôi sẽ phân bố chỗ nào?

Các vị ấy đề cập chỗ ở xa vì có chủ đích:

- Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở núi Gijjhakūta cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở khe núi Kẻ Cướp (Corappapāte) cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở sườn núi isigili, chỗ tảng đá Đen cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở sườn núi Vebhāra, hang Sattapanni cho chúng tôi.Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở rừng Sīta, động Sappasondika cho chúng tôi. Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở hẽm núi Gomata cho chúng tôi.Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở hẽm núi Tinduka cho chúng tôi.Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở hẽm núi Kapota cho chúng tôi.Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở khu vườn Tapoda cho chúng tôi.Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở vườn xoài của Jīvaka cho chúng tôi.Này đại đức Dabba, hãy phân bố chỗ ngụ ở Maddakucchi, nơi vườn nai cho chúng tôi.

Đại đức Dabba Mallaputta đã nhập thiền đề mục ánh sáng thắp sáng ở ngón tay và đi phía trước. Còn các vị ấy đi ở phía sau đại đức Dabba Mallaputta nhờ chính ánh sáng ấy. Đại đức Dabba Mallaputta đã phân bố chỗ ngụ cho các vị ấy như vầy:

- Đây là giường, đây là ghế, đây là nệm, đây là gối, đây là nhà tiêu, đây là chỗ tiểu, đây là nước uống, đây là nước rửa, đây là gậy chống, đây là qui định của hội chúng: "Giờ này có thể đi vào.Giờ này có thể đi ra."

Đại đức Daba Mallaputta sau khi phân bố chỗ ngụ cho các vị ấy như thế rồi đã quay trở về lại Trúc Lâm (Veluvana).

[594] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka chỉ là các vị mới tu và phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém và những bữa ăn tồi. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở Rājagaha muốn cúng dường đến các tỷ-kheo trưởng lão thức ăn được sắp đặt trước gồm có: Bơ, dầu, phần ăn ngon; và chỉ dâng đến các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka vật bình thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua. Các vị ấy khi đi thọ thực về sau bữa ăn đã hỏi các tỷ-kheo trưởng lão rằng:

- Bạch chư dại dức, trong nhà ăn các vị đã có thức gì? Các vị đã không có thức gì?

Một số trưởng lão trả lời như vầy:

- Này các đại đức, chúng tôi có bơ, có dầu, có phần ăn ngon.

Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã nói như vầy:

- Bạch chư đại đức, chúng tôi đã không được gì cả, chỉ là vật bình thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.

[595] Vào lúc bấy giờ, có một gia chủ là người có bữa ăn ngon thường cúng dường đến hội chúng bữa ăn gồm bốn phần là bữa ăn thường lệ. Vị ấy cùng vợ và các con thường hiện diện và phục vụ ở nhà ăn; họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác nữa phần ăn ngon.

[596] Vào lúc bấy giờ, bữa ăn vào ngày hôm sau của vị gia chủ có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka. Hôm ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện bởi một công việc cần làm gì đó. Vị ấy đã đi đến đại đức Dabba Mallaputta, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Dabba Mallaputta rồi ngồi xuống một bên. Đại đức Dabba Mallaputta bằng bài Pháp thoại đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi vị gia chủ có bữa ăn ngon đang ngồi một bên. Sau khi đã được đại đức Dabba Mallaputta chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này:

- Bạch đại đức, bữa ăn vào ngày mai ở nhà chúng tôi được sắp xếp cho vị nào?

- Này gia chủ, bữa ăn vào ngày mai ở nhà gia chủ được sắp xếp cho các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka.

Khi ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đã không được phấn khởi (nghĩ rằng): "Vì sao các tỷ-kheo tồi tệ lại thọ thực ở nhà của chúng ta?" rồi đã đi về nhà và dặn dò người tớ gái rằng:

- Hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.

- Xin vâng, thưa chủ nhân. Người tớ gái ấy đã đáp lại vị gia chủ có bữa ăn ngon.

Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka (nghĩ rằng): "Này các đại đức, hôm qua bữa ăn của gia chủ có bữa ăn ngon đã được sắp xếp cho chúng ta. Vào ngày mai, vị gia chủ có bữa ăn ngon cùng vợ và các con sẽ hiện diện và phục vụ chúng ta; họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác nữa phần ăn ngon." Do chính tâm vui mừng ấy, đêm ấy các vị đã không ngủ được như ý. Rồi vào lúc sáng sớm, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của vị gia chủ có bữa ăn ngon. Cô tớ gái ấy đã thấy các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đang đi lại từ đàng xa, thấy rồi đã xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho, và nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:

- Bạch các ngài, xin thỉnh các ngài ngồi.

Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka khởi ý rằng: "Chắn hẳn đến giờ này bữa ăn vẫn chưa hoàn tất nên chúng ta mới được cho ngồi ở nhà kho như thế này!" Sau đó, cô tớ gái ấy đã trở lại với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua, (nói rằng):

- Bạch các ngài, xin thỉnh các ngài ăn.

- Này chị, chúng tôi là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ.

- Tôi biết các ngài là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ. Vả lại, chính ngày hôm qua tôi đã được gia chủ đích thân bảo rằng: "Hãy xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho cho các vị đến thọ thực vào ngày mai và dâng cho họ cơm tấm và món thứ hai là cháo chua." Bạch các ngài, xin thỉnh các ngài ăn.

Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): "Này các đại đức, hôm qua vị gia chủ có bữa ăn ngon đã đi đến tu viện gặp Dabba Mallaputta. Chắc chắn rằng chúng ta đã bị Dabba Mallaputta ly gián với vị gia chủ." Chính vì tâm bực bội ấy khiến các vị đã không thọ thực được như ý. Rồi sau bữa ăn, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka, từ chỗ thọ thực đi trở về lại tu viện, đã bỏ y bát xuống, ngồi xếp chân ở trên y hai lớp (saṅghāti) ở bên ngoài cổng ra vào của tu viện, im lặng, xấu hổ, rút vai lại, mặt cúi xuống, trầm ngâm, không nói năng.

Khi ấy, tỷ-kheo ni Mettiyā đi đến gặp các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka, đến rồi đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:

- Tôi xin chào các ngài.

Được nói vậy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.

Đến lần thứ nhì, …(như trên)…

Đến lần thứ ba, tỷ-kheo ni Mettiyā đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này:

- Tôi xin chào các ngài.

Lần thứ ba, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã không đáp lại.

- Tôi đã làm các ngài phật lòng điều gì? Tại sao các ngài không nói chuyện với tôi?

- Này cô ni, bởi vì cô vẫn dửng dưng trong lúc chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.

- Bạch các ngài, tôi làm được điều gì?

- Này cô ni, nếu cô chịu làm thì ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất đại đức Dabba Mallaputta.

- Bạch các ngài, tôi làm được điều gì? Tôi có thể làm điều gì?

- Này cô ni, cô hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, đến rồi hãy hói với đức Thế Tôn như vầy: "Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ngài Dabba Mallaputta làm ô uế."

- Bạch các ngài, xin vâng ạ.

Tỷ-kheo ni Mettiyā đã nghe theo các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng một bên. Khi đã đứng một bên, tỷ-kheo ni Mettiyā đã bạch với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không hợp lý. Bạch ngài, chính ở quốc độ có sự an toàn, không tai hoạ, không sầu khổ thì chính ở quốc độ ấy có sự sợ hãi, có tai hoạ, và có sầu khổ; từ nơi nào gió lặng đi thì từ nơi ấy có bão tố; con nghĩ rằng nước đã bùng cháy lên rồi; con đã bị ngài Dabba Mallaputta làm ô uế.

[597] Rồi đức Thế-tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy liền tập họp chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:

- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều tỷ-kheo ni này vừa nói không?

- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế-tôn biết rõ mà.

Lần thứ nhì, đức Thế-tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:

- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều tỷ-kheo ni này vừa nói không?

- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế-tôn biết rõ mà.

Lần thứ ba, đức Thế-tôn đã hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng:

- Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đã hành động giống như điều tỷ-kheo ni này vừa nói không?

- Bạch ngài, con như thế nào đức Thế-tôn biết rõ mà.

- Này Dabba, giòng họ Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hãy nói: "Có làm;" nếu không làm, hãy nói: "Không làm."

- Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không bao giờ thấy mình là kẻ tầm cầu việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống gì là tỉnh thức.

Sau đó, đức Thế-tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì các ngươi hãy trục xuất tỷ-kheo ni Mettiyā và tra hỏi các tỷ-kheo này.

Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.

Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trục xuất tỷ-kheo ni Mettiyā. Khi ấy, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka đã nói điều này:

- Bạch chư đại đức, xin đừng trục xuất tỷ-kheo ni Mettiyā, cô ta không làm tội lỗi gì.Vì chúng tôi nổi giận, không vừa ý, có ý định hạ nhục nên xúi giục cô ta thôi.

- Này các đại đức, có phải các vị bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?

- Bạch chư đại đức, đúng vậy.

Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka lại bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?

Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka bôi nhọ Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, vị Dabba Mallaputta ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch chư đại đức, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch chư đại đức, tôi là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ giờ cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba:

- Bạch chư đại đức, các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch chư đại đức, tôi là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ giờ cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ lần thứ ba.

[598] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Đại đức Dabba Mallaputta, là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Đại đức Dabba Mallaputta, là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Đại đức Dabba Mallaputta, là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cầu xin hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đã được hội chúng ban đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[599] Này các tỷ-kheo, đây là năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ: Vị tỷ-kheo được trong sạch, không có phạm tội, các vị (khác) vu cáo vị ấy, vị ấy cầu xin, hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị ấy với sự hòa hợp đúng Pháp. Này các tỷ-kheo, đây là năm sự ban cho đúng Pháp cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.

3. Hành xử Luật khi không điên cuồng (Amūlhavinayo):

[600] Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo Gagga là vị bị điên và bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã thực hiện khi vị ấy bị điên và bị thay đổi tâm tính:

- Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng.

Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng:

- Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?

Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo lại khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã được thực hiện khi vị ấy bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?"?

Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo …(như trên)…, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

…(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Gagga ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tôi với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Tôi nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Bạch chư đại đức, giờ không điên cuồng tôi cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba:

Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tôi với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Tôi nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Bạch chư đại đức, giờ không điên cuồng tôi cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng lần thứ ba.

[601] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Gagga này bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Giờ không điên cuồng, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Gagga này bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Các tỷ-kheo đã khiển trách tỷ-kheo Gagga với tội đã được thực hiện khi bị điên và bị thay đổi tâm tính: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi chính tôi khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Tôi đã làm điều ấy khi bị điên cuồng." Dù được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Giờ không điên cuồng, vị ấy cầu xin hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Gagga khi không bị điên cuồng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[602] Này các tỷ-kheo, đây là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Thế nào là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng?

Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo phạm tội. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không nhớ là đã phạm tội như thế." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.

[603] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo phạm tội. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.

[604] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo phạm tội. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy, là vị không bị điên, (giả vờ) hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): "Tôi làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Đối với tôi, điều ấy là đúng đắn. Điều ấy cũng đúng đắn đối với các vị." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là không đúng Pháp.

Đây là ba sự ban cho không đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng.

[605] Thế nào là ba sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng?

Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy không nhớ được nên nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không nhớ được là đã vi phạm tội như thế." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.

[606] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy không nhớ được nên nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.

[607] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp này là vị tỷ-kheo bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên và bị thay đổi tâm tính. Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Đại đức có nhớ đã vi phạm tội như thế này không?" Vị ấy là vị bị điên, hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): "Tôi làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Đối với tôi, điều ấy là đúng đắn. Điều ấy cũng đúng đắn đối với các vị." Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.

4. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận (Patiññātakaranaṃ):

[608] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đến các tỷ-kheo chưa chịu thừa nhận. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại thực thi các hành sự: khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, và án treo đến các tỷ-kheo chưa chịu thừa nhận?

Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

…(như trên)…

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, hòa giải, hoặc án treo không nên thực thi đến các tỷ-kheo chưa chịu thừa nhận. Vị nào thực thi thì phạm tội tác ác (dukkata).

[609] Này các tỷ-kheo, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế này gọi là không đúng Pháp, như thế này gọi là đúng Pháp.

Này các tỷ-kheo, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp?

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika (Bất cộng trụ)?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội Saṅghādisesa (Tăng tàng)." Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội Saṅghādisesa. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm trọng tội (thullaccaya). Hội chúng hành sự cho vị ấy với trọng tội. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội ưng đối trị. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội ưng phát lộ (pātidesanīya). Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội ưng phát lộ. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội tác ác (dukkata). Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội tác ác. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội pārājika, tôi đã phạm tội ác khẩu (dubbhāsita). Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội ác khẩu. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa…(như trên)… trọng tội (thullaccaya) …(như trên)… tội ưng đối trị (pācittiya) …(như trên)… tội ưng phát lộ (pātidesanīya) …(như trên)… tội tác ác (dukkata) …(như trên)… tội ác khẩu (dubbhāsita). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội ác khẩu (dubbhāsita), tôi đã phạm tội pārājika." Hội chúng hành sự cho vị ấy tội pārājika. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội ác khẩu (dubbhāsita). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi không phạm tội ác khẩu (dubbhāsita), tôi đã phạm tội Saṅghādisesa…(như trên)… trọng tội (thullaccaya) …(như trên)… tội ưng đối trị (pācittiya) …(như trên)… tội ưng phát lộ (pātidesanīya) …(như trên)… tội tác ác (dukkata)." Hội chúng hành sự cho vị ấy tội tác ác (dukkata). Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là không đúng Pháp.

Này các tỷ-kheo, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế gọi là không đúng Pháp.

[610] Này các tỷ-kheo, thế nào là việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp?

Vị tỷ-kheo phạm tội pārājika(Bất cộng trụ). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội pārājika?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi đã phạm tội pārājika." Hội chúng hành sự cho vị ấy tội pārājika. Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp.

Vị tỷ-kheo phạm tội Saṅghādisesa…(như trên)… trọng tội (thullaccaya) …(như trên)… tội ưng đối trị (pācittiya) …(như trên)… tội ưng phát lộ (pātidesanīya) …(như trên)… tội tác ác (dukkata) …(như trên)… tội ác khẩu (dubbhāsita). Hội chúng hoặc nhiều vị hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: "Có phải đại đức đã vi phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)?"Vị ấy nói như vầy: "Bạch chư đại đức, tôi đã phạm tội ác khẩu (dubbhāsita)." Hội chúng hành sự cho vị ấy tội ác khẩu (dubbhāsita). Việc phán xử theo tội đã được thừa nhận là đúng Pháp.

Này các tỷ-kheo, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận như thế gọi là đúng Pháp.

5. Thuận theo số đông (Yebhuyyasikā):

[611] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sinh hoạt trong hội chúng đã gây ra các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và làm tổn thương lẫn nhau bằng các vũ khí miệng lưỡi. Họ đã không thể giải quyết sự tranh tụng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng như thế thuận theo số đông. Vị tỷ-kheo hội đủ năm điều kiện nên được chỉ định làm vị phân phát thẻ (salākaggāhāpako): là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; và vị ấy biết (thẻ) đã được nhận hay không được nhận.

Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu cầu; sau khi đã yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phát thẻ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[612] Này các tỷ-kheo, đây là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp, mười (sự phân phát thẻ) đúng Pháp.

Thế nào là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp?

Khi sự tranh tụng là việc nhỏ nhặt, chưa đến mức phải xử lý, không được nhớ lại hoặc làm cho nhớ lại, vị phân phát thẻ biết rằng: "Các vị nói sai Pháp nhiều hơn," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ các vị nói sai Pháp nhiều hơn," vị ấy biết rằng: "Hội chúng sẽ bị chia rẽ," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ hội chúng sẽ bị chia rẽ," các vị nhận lãnh thẻ không được hợp lệ, các vị có sự chia phe nhóm khi nhận lãnh thẻ, các vị nhận lãnh không theo quan điểm (của bản thân).

Đây là mười sự phân phát thẻ không đúng Pháp.

[613] Thế nào là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp?

Khi sự tranh tụng không phải là việc nhỏ nhặt, đã đến mức phải xử lý, được nhớ lại hoặc được làm cho nhớ lại, vị phân phát thẻ biết rằng: "Các vị nói đúngPháp nhiều hơn," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ các vị nói đúng Pháp nhiều hơn," vị ấy biết rằng: "Hội chúng sẽ không bị chia rẽ," (vị ấy nghĩ rằng): "Có lẽ hội chúng sẽ không bị chia rẽ," các vị nhận lãnh thẻ một cách hợp lệ, các vị có sự hòa hợp khi nhận lãnh thẻ, các vị nhận lãnh theo quan điểm (của bản thân).

Đây là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp.

6. Theo tội của vị ấy(Tassapāpiyasikā):

[614] Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo Upavāla trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá có chủ ý. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao tỷ-kheo Upavāla trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá có chủ ý?

Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla. Và này các tỷ-kheo, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỷ-kheo Upavāla cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở rồi cần được xác định tội; sau khi được xác định tội rồi, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Upavāla này trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá có chủ ý. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Upavāla này trong khi được tra hỏi các tội trước hội chúng đã phủ nhận rồi lại thừa nhận, đã thừa nhận rồi lại phủ nhận, đã tránh né tội ấy bằng một tội khác, đã nói điều dối trá có chủ ý. Hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla. Đại đức nào thỏa thuận với việc thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành sự theo tội của vị ấy đã được hội chúng thực thi đến tỷ-kheo Upavāla. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[615] Này các tỷ-kheo, đây là năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy: Vị ấy không trong sạch, không có hổ thẹn, có sự khiển trách, hội chúng thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến vị ấy đúng Pháp, có sự hòa hợp.

Này các tỷ-kheo, đây là năm sự thực thi đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy.

[616] Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện: được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận (appatiññāya kataṃ) Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất. …(như trên)… Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: được thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm.

Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.

[617] Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện: được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi với sự thừa nhận (patiññāya kataṃ). Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp. …(như trên)… Này các tỷ-kheo, một hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội đủ ba điều kiện khác nữa: được thực thi sau khi xác định tội, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi bởi hội chúng hòa hợp.

Này các tỷ-kheo, một hành sự xua đuổi hội đủ ba điều kiện này là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.

[618] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính: là vị thường gây nên sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và sự tranh tụng trong hội chúng; là vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, thiếu khả năng; là vị năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính này.

[619] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính khác nữa: là vị không thành tựu giới thuộc tăng thượng giới, là vị không thành tựu hạnh thuộc tăng thượng hạnh, là vị không thành tựu tri kiến thuộc tăng thượng tri kiến. Này các tỷ-kheo, …(như trên)… ba đặc tính này.

[620] Này các tỷ-kheo, …(như trên)… ba đặc tính khác nữa: là vị chê bai Phật, là vị chê bai Pháp, là vị chê bai Tăng. Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỷ-kheo hội đủ ba đặc tính này.

[621] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo: hạng thường gây nên sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, thiếu khả năng; hạng năng thân cận giới tục gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng người thế tục. Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo này.

[622] Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo khác nữa: hạng không thành tựu giới thuộc tăng thượng giới, hạng không thành tựu hạnh thuộc tăng thượng hạnh, hạng không thành tựu tri kiến thuộc tăng thượng tri kiến. Này các tỷ-kheo, …(như trên)… ba hạng tỷ-kheo này.

[623] Này các tỷ-kheo, …(như trên)… ba hạng tỷ-kheo khác nữa: hạng chê bai Phật, hạng chê bai Pháp, hạng chê bai Tăng. Này các tỷ-kheo, nếu mong muốn hội chúng nên thực thi hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỷ-kheo này.

[624] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo thực thi hành sự theo tội của vị ấy nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên; không nên ban cho phép nương nhờ; không nên để sa-di phục vụ; không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni; không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định; …(như trên)…; không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.

Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự theo tội của vị ấy đến tỷ-kheo Upavāla.

7. Cách dùng cỏ che lấp (Tinavatthārakaṃ):

[625] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Khi ấy, điều này đã sanh khởi đến các tỷ-kheo ấy: "Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Vậy chúng ta nên thực hành như thế nào đây?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[626] Này các tỷ-kheo, trong trường hợp các tỷ-kheo trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Ở đây, nếu các tỷ-kheo (nghĩ) như vầy: "Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Vậy chúng ta nên thực hành như thế nào đây?" Này các tỷ-kheo, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có hình thức như thế bằng cách dùng cỏ che lấp.

[627] Và này các tỷ-kheo, nên giải quyết như vầy: Tất cả nên tụ họp lại một chỗ; sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng [*] và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.

[*] Trường hợp tỷ-kheo phạm tội Pārājika và Saṅghādisesa (tức là Bất cộng trụ và Tăng tàng).

Một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về cùng một phe nên thông báo đến phe của mình rằng:

- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của chư đại đức và tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của chư đại đức và vì lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.

[628] Khi ấy, một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của mình rằng:

- Xin chư đại đức hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của chư đại đức và tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của chư đại đức và vì lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.

[629] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về một phe rằng:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và tội của tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào thỏa thuận việc sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp các tội ấy của chúng tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Các tội ấy của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[630] Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi một vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực của các tỷ-kheo thuộc về phe kia rằng:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và tội của tôi trước hội chúng chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sinh hoạt đã nảy sinh các sự xung đột, gây gỗ, đưa đến tranh cãi, và có nhiều việc không xứng là sa-môn bằng lời nói và hành động đã được thực hiện. Nếu chúng ta lại gây ra cho nhau bằng các tội này, như thế thì sự tranh tụng này có thể đưa đến lủng củng nội bộ, bất hòa nội bộ, và chia rẽ. Chính vì sự lợi ích của các đại đức ấy và vì lợi ích của tôi, tôi xin sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp tội của các đại đức ấy và tội của tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào thỏa thuận việc sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp các tội ấy của chúng tôi trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Các tội ấy của chúng tôi đã được sám hối bằng cách dùng cỏ che lấp trước hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[631] Và này các tỷ-kheo, như thế các tỷ-kheo ấy đã được thoát khỏi các tội ấy, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng và ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, ngoại trừ (các vị) có quan điểm khác về hành sự này, ngoại trừ các vị không hiện diện ở đó.

----oOo----


Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

Source: BuddhaSasana

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com