Tạng Luật
Vinaya Pitaka
Tiểu Phẩm
Cullavagga
Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiêndịch
----oOo----
II. Chương Hành Parivāsa(Parivāsikakkhandhakaṃ)
1. Phận sự của vị hành Parivāsa (Parivāsikavattaṃ):
[320]Lúc bấy giờ, đức Phật Thế tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo hành parivāsatiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo hành parivāsalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
Rồi các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[321] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo hành parivāsalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo hành parivāsalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo hành parivāsakhông nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, việc chắp tay, việc làm phận sự thích hợp, việc sửa soạn chỗ ngồi, việc sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, việc tiếp rước y bát, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo hành parivāsavới nhau tính theo thâm niên.
Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo hành parivāsađược tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo hành parivāsa, các tỷ-kheo hành parivāsanên thực hành theo như thế.
[322] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsanên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng đã cho hành parivāsa, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.
[323] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsakhông nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsakhông nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."
[324] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsalà vị khách (đi đến) nên trình báo (về hành phạt đang thọ), nên trình báo đến vị tỷ-kheo khách, nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāranā (về hành phạt đang thọ). Nếu vị ấy bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[325] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[326] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[327] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
[328] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsakhông nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[329] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsacùng với vị tỷ-kheo thâm niên hơn cũng là vị hành parivāsa…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội, không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[330] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị đang hành parivāsathì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt Chín mươi bốn phận sự của vị hành parivāsa(Parivāsika).
[331] Lúc bấy giờ, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã bạch với đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài, vị tỷ-kheo hành parivāsacó bao nhiêu (lý do bị) đứt đêm?
- Này Upāli, vị tỷ-kheo hành parivāsacó ba (lý do bị) đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỷ-kheo đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ riêng rẽ (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỷ-kheo đi đến biết) [*]. Này Upāli, đây là ba (lý do bị) đứt đêm của vị tỷ-kheo hành parivāsa.
[*] Lời giải thích trong ngoặc đơn dựa vào chú giải Samantapāsādikā của Buddhaghosa.
[332] Vào lúc bấy giờ, một hội chúng tỷ-kheo đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỷ-kheo hành parivāsakhông thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngưng hành phạt parivāsa. Và này các tỷ-kheo, nên ngưng như vầy: Vị tỷ-kheo hành parivāsanên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi ngưng hành phạt parivāsa." Hành phạt parivāsađã được ngưng lại. "Tôi ngưng (thực hành) phận sự." Hành phạt parivāsađã được ngưng lại.
[333]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỷ-kheo hành parivāsacó thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ trì lại hành phạt parivāsa. Và này các tỷ-kheo, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỷ-kheo hành parivāsanên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi thọ trì lại hành phạt parivāsa." Hành phạt parivāsađã được thọ trì lại. "Tôi thọ trì lại phận sự." Hành phạt parivāsađã được thọ trì lại.
Dứt phận sự của vị hành parivāsa.
2. Phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu
(Mūlāya patikassanārahavattaṃ):
[334]Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
Rồi các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[335] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)…, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu với nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu được tính theo thâm niên.
Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nên thực hành theo như thế.
[336] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.
[337] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."
[338] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[339] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[340] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
[341] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[342] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu cùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[343] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu thì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu.
3. Phận sự của vị xứng đáng hành mānatta (Mānattārahavattaṃ):
[344] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattatiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattakhông nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattavới nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattađược tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta, các tỷ-kheo xứng đáng hành mānattanên thực hành theo như thế.
[345] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattanên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng đã cho (thực hành) trở lại từ đầu, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.
[346] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattakhông nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattakhông nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."
[347] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattalà vị khách (đi đến) nên trình báo (về hành phạt đang thọ), nên trình báo đến vị tỷ-kheo khách, nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāranā (về hành phạt đang thọ). Nếu vị ấy bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[348] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[349] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[350] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
[351] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattakhông nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[352] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattacùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānattanhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[353] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị đang xứng đáng hành mānattathì không thể cho hành phạt parivāsa, không thể cho trở lại (hành phạt) từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì không thể giải tội, việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt phận sự của vị xứng đáng hành mānatta.
4. Phận sự của vị thực hành Mānatta(Mānattacārikavattaṃ):
[354] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo đang thực hành mānattatiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo đang thực hành mānattalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
Rồi các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[355] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo đang thực hành mānattalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo đang thực hành mānattalại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo đang thực hành mānattakhông nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo đang thực hành mānattavới nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo đang thực hành mānattađược tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo đang thực hành mānatta, các tỷ-kheo đang thực hành mānattanên thực hành theo như thế.
[356] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattanên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng cho hành phạt mānatta, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.
[357] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattakhông nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattakhông nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."
[358] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang hành mānattalà vị khách (đi đến) nên trình báo (về hành phạt đang thọ), nên trình báo đến vị tỷ-kheo khách, nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāranā, nên trình báo mỗi ngày. Nếu vị ấy bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.
[359] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[360] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
[361] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattaở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
[362] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattakhông nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[363] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattacùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānattanhưng thâm niên hơn…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[364] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị thực hành mānattathì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
[365] Lúc bấy giờ, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã bạch với đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattacó bao nhiêu (lý do bị) đứt đêm?
- Này Upāli, vị tỷ-kheo đang thực hành mānattacó bốn (lý do bị) đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỷ-kheo đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ riêng rẽ (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỷ-kheo đi đến biết), sự thực hành ở nhóm thiếu (nhân sự). Này Upāli, đây là bốn (lý do bị) đứt đêm của vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta.
[366] Vào lúc bấy giờ, một hội chúng tỷ-kheo đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỷ-kheo đang thực hành mānattakhông thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngưng hành phạt mānatta. Và này các tỷ-kheo, nên ngưng như vầy: Vị tỷ-kheo đang thực hành mānattanên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi ngưng hành phạt mānatta." Hành phạt mānattađã được ngưng lại. "Tôi ngưng (thực hành) phận sự." Hành phạt mānattađã được ngưng lại.
[367]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỷ-kheo đang thực hành mānattacó thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ trì lại hành phạt mānatta. Và này các tỷ-kheo, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỷ-kheo đang thực hành mānattanên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi thọ trì lại hành phạt mānatta." Hành phạt mānattađã được thọ trì lại. "Tôi thọ trì lại phận sự." Hành phạt mānattađã được thọ trì lại.
Dứt phận sự của vị thực hành mānatta.
5. Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội (Abbhānārahavattaṃ):
[368] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?
Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[369] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội với nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội được tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội, các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội nên thực hành theo như thế.
[370] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, …(như trên)… (Phận sự của vị xứng đáng hành mānatta, của vị hành mānatta, của vị xứng đáng sự giải tội được giải thích giống như phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.
[371] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."
[372] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm…(như trên)… (Nên giải thích tương tợ như ở phần dưới).
Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."
[373] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[374] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội cùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
[375] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng sự giải tội thì thì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.
Dứt Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội.
Dứt Chương Hành Biệt Trú là chương thứ hai.
Trong chương này có năm sự kiện.
Tóm lược chương này:
[376]
Các vị (bị phạm tội)
hành parivāsa
tiếp nhận sự đảnh lễ,
sự đứng dậy, chắp tay,
sự thực hành đúng đắn,
sắp xếp chỗ ngồi, nằm,
nước rửa chân, ghế kê,
giẻ chùi, sự nhận bát,
kỳ cọ lưng khi tắm
của tỷ-kheo trong sạch,
các vị tốt phiền não,
vị tiếp nhận tác ác.
Có năm điều khác nữa
được tính theo thâm niên:
lễ Uposatha,
lễ Pavāranā,
y tắm, vật cúng dường,
bữa ăn (là thứ năm).
Phận sự cần nghiêm chỉnh,
khi vị ấy đi cùng
vị tỷ-kheo trong sạch.
Là điều bị hạn chế:
không (sa môn) đi trước
hay thị giả đi sau,
cư ngụ ở trong rừng,
việc đem lại thức ăn,
trình báo đến vị khách,
lễ Uposatha,
lễ Pavāranā,
và nhờ vị sứ giả.
Vị ấy có thể đi
nơi nào có tỷ-kheo,
không ngụ chung mái che,
đứng dậy, và mời thỉnh,
và cũng y như thế
chỗ ngồi phải thấp hơn,
luôn cả lối kinh hành.
Đối với vị thâm niên,
kinh hành trên mặt đất,
không đi lối kinh hành.
Không là việc thực hành,
những lúc bị đứt đêm,
và vì sự toàn hảo,
việc ngưng, thọ trì lại.
Phận sự vị (phạm tội)
hành parivāsa,
vị hành lại từ đầu,
vị xứng mānatta,
vị hành mānatta,
vị xứng đáng phục chức,
được phân tích tương tợ
theo như phương pháp ấy.
Còn có ba điều nữa
cho vị (bị phạm tội)
hành parivāsa,
bốn điều cho các vị
thực hành mānatta,
không thực hành đúng đắn,
và các sự đứt đêm.
Phải trình báo hàng ngày
cho vị mānatta.
Hai hành phạt còn lại
cũng thực hành tương tợ
như ba hành phạt kia.
----oOo----
Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)
Source:
Trình bày: Nhị Tường