Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo Án Trường Bộ Kinh (do Sư Sán Nhiên biên soạn năm 1990)

06/12/202110:16(Xem: 8453)
Giáo Án Trường Bộ Kinh (do Sư Sán Nhiên biên soạn năm 1990)

Giao an Kinh Truong_ Su San Nhien
Giáo Án Trường Bộ Kinh

Ấn Bản 2011

Đại Đức Giáo Thọ Sán Nhiên biên soạn (1990) và hiệu đính (2011)

Tâm Pháp Thiền Viện Saddhamma Meditation Society 574 Willow Brook Road Bumpass, VA 23024


Kỳ Viên Tự Jetavana Vihara

1400 Madison Street Northwest Washington, D.C. 20011

Phone: 202-882-6054

Giới Thiệu Tổng Quát Về Trường Bộ Kinh

Trường Bộ Kinh có 34 bài kinh, với mỗi bài kinh có nội dung rất dài, đề cập trọn đủ một vấn đề, và không lệ thuộc vào bộ kinh nào khác.


Tên gọi của mỗi một bài kinh:

  1. Kinh BRAHMAJÀLA – Kinh Phạm Võng
  2. Kinh SÀMAÑÑAPHALA – Kinh Sa Môn Quả
  3. Kinh AMBATTHA – Kinh A Ma Trú
  4. Kinh SONADANDA – Kinh Chủng Đức
  5. Kinh KÙTADANTA – Kinh Cửu La Đàn Đầu
  6. Kinh MAHÀLI – Kinh Ma Ha Lê
  7. Kinh JALIYA – Kinh Xá Lợi
  8. Kinh KASSAPA SÌHANÀDA – Kinh Ca Diếp Sư Tử Hống
  9. Kinh POTTHAPÀDA – Kinh Bố Thác Bà Lậu
  10. Kinh SUBHA – Kinh Tu Bà
  11. Kinh KEVADHA – Kinh Kiên Cố
  12. Kinh LOHICCA – Kinh Lô Giá
  13. Kinh TEVIJJA – Kinh Tam Minh
  14. Kinh MAHÀPADÀNA – Kinh Đại Bổn
  15. Kinh MAHÀNIDÀNA – Kinh Đại Duyên
  16. Kinh MAHÀPARINIBBÀNA – Kinh Đại Viên Tịch Níp Bàn
  17. Kinh MAHÀ SUDASSANA – Kinh Đại Thiện Kiến Vương
  18. Kinh JANAVASABHA – Kinh Xà Ni Sa
  19. Kinh MAHÀGOVINDA – Kinh Đại Diễn Tôn
  20. Kinh MAHÀSAMAYA – Kinh Đại Hội
  21. Kinh SAKKAPANHÀ – Kinh Đế Thích Sở Vấn
  22. Kinh MAHÀSATIPATTHÀNA – Kinh Đại Niệm Xứ
  23. Kinh PÀYÀSI – Kinh Tệ Túc
  24. Kinh PÀTIKA – Kinh Ba Lê
  25. Kinh UDAMBARIKÀ SÌHANÀDA – Kinh Ưu Đàm Bà La Sư Tử Hống
  26. Kinh CAKKAVATI SÌHANÀDA – Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống
  27. Kinh AGGAÑÑA – Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
  28. Kinh SAMPASÀDANIYA – Kinh Tự Hoan Hỷ
  29. Kinh PÀSÀDIKA – Kinh Thanh Tịnh
  30. Kinh LAKKHANA – Kinh Tướng Trạng
  31. Kinh SIGÀLOVÀDA – Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt
  32. Kinh ATÀNÀTIYA – Kinh A Sá Năng Chí
  33. Kinh SANGÌTI – Kinh Phúng Tụng
  34. Kinh DASUTTARA – Kinh Thập Thượng


Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh.

Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật,  từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.

Bài kinh Sa Môn Quả giới thiệu thứ bậc của một vị xuất gia theo đức Phật, từ khi mới bước chân vào Thiền Môn cho đến khi thành đạt Đạo Quả. Kinh này khéo hệ thống hóa sự tu hành của một vị Sa Môn một cách rõ ràng và mạch lạc, cũng như trình bày những kết quả tốt đẹp và thiết thực do hạnh Sa Môn mang đến.

Bài kinh A Ma Trú bênh vực cho sự bình đẳng giai cấp và bác bỏ nền thống trị giai cấp của Bà La Môn. Qua bài kinh này, đức Phật nhấn mạnh địa vị con người, không thể bằng cứ vào giai cấp, mà phải dựa trên nền tảng giới đức và trí đức của con người.

Với mười bài kinh tiếp theo (từ bài thứ 4 đến 13), thì bài kinh Tu Bà với đại đức Ànanda, nói đến phương pháp tu hành của Sa Môn Gotama sau khi đức Phật vừa mới viên tịch Níp Bàn, tương tự như nội dung của bài kinh Sa Môn Quả, và phân loại theo ba pháp Vô Lậu Học, Giới – Định – Tuệ. Chín bài kinh nối tiếp nêu lên những quan điểm và thái độ của đức Phật đối với những vấn đề xã hội Ấn Độ đương thời, sùng tín nhiệt thành, bất khả thuyết, khổ hạnh, linh hồn, thần thông biến hóa, Phạm Thiên cùng con đường đưa đến Phạm Thiên, và thái độ ích kỷ không thuyết giáo.

Mười bài kinh tiếp theo (từ bài thứ 14 đến 23) đề cập đến giáo lý thuần túy, với Liên Quan Tương Sinh trình bày về 12 lý duyên khởi. Bài kinh Đại Niệm Xứ đề cập đến phương pháp tu hành và nêu lên nét đặc trưng độc nhất đưa đến giải thoát. Bài kinh Viên Tịch Níp Bàn diễn tả lại những ngày cuối cùng của đức Phật và cuộc hành trình tối hậu suốt ba tháng trường, từ thành Vương Xá đi qua các thành phố lớn nhỏ, cuối cùng đến Kusinarà và viên tịch Níp Bàn, mang một tầm vóc lịch sử rất có giá trị trên con đường truyền giáo của Ngài, v.v…

Tiếp theo là những bài kinh khuyến khích đời sống tu tập của các vị tỳ khưu, hãy tự sống với chính mình, là ngọn đuốc cho chính mình, và giữ gìn oai nghi chánh hạnh. Phủ nhận giá trị tối thượng của giai cấp Bà La Môn và xác nhận sự bình đẳng của bốn giai cấp theo hành vi Thiện Ác của mình. Lấy Chánh Pháp là vị tối thượng, dù là thuộc giai cấp nào đi nữa, vì Pháp là tối thượng.

Bài kinh Tự Hoan Hỷ nói lên lòng tin tưởng vô biên của đại đức Xá Lợi Phất đối với đức Phật bởi vì đại đức Xá Lợi Phất biết đến truyền thống Chánh Pháp, tất cả bậc Chánh Đẳng Giác đã diệt trừ Ngũ Triền Cái, an trú trong Tứ Niệm Xứ, tu hạnh Thất Giác Chi, và chứng đắc Vô Thượng Giác.

Với bài kinh Thanh Tịnh, đức Phật khuyên chư tỳ khưu nên sống hòa hợp, dung hòa, tương thân tương kính, không nên tranh chấp cãi cọ với nhau.

Với bài kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt, đức Phật giải thích ý nghĩa và giá trị trong việc lễ bái Lục Phương, là diệt trừ bốn nghiệp phiền não, không làm điều ác theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân phung phí tài sản. Đức Phật giải thích rõ ràng từng phương một trong Lục Phương. Phương Đông chỉ cho Cha Mẹ – Con Cái, phương Nam chỉ cho Thầy – Trò, phương Tây chỉ cho Vợ – Chồng, phương Bắc chỉ cho Bạn Hữu, phương Dưới chỉ cho Chủ – Tớ, và phương Trên chỉ cho Sa Môn – Bà La Môn. Chính những sự đối xử tương xứng tạo ra sự an lạc, hoan hỷ cho cả Lục Phương.

Với bài kinh A Sá Năng Chí, được đức Phật thuận ý, vua Tỳ Sa Môn giới thiệu học chú (kàthà) để khởi lòng tin cho hàng Dạ Xoa và cũng để che chở hộ trì Tứ Chúng.

Hai bài kinh cuối cùng, Kinh Phúng Tụng và Kinh Thập Thượng, do đại đức Xá Lợi Phất thuyết giảng với các Pháp Số từ một đến mười, tóm lược và giải thích các Pháp mà đức Phật đã khéo thuyết giảng, phân loại từ một chi Pháp đến mười chi Pháp, với mục đích ôn lại những lời giảng dạy của đức Phật cho được tròn đủ, không thiếu sót, và tránh khỏi sự tranh luận. Hai bài kinh cuối này rất quan trọng  vì mở đầu cho các học giả được thuận duyên tu học Tạng Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma) sau này.

Xuyên qua 34 bài kinh thuộc Trường Bô Kinh, học giả hội túc duyên sẽ lãnh hội nhiều lợi lạc trong việc tu học và trau giồi trí tuệ, ngõ hầu tiến tới Đạo Quả giải thoát Níp Bàn.

*Các bài trích trong cuốn Giáo Án Trường Bộ Kinh của Tỳ Khưu PASÀDO Sán Nhiên. Nguồn Vietheravada.

Giáo Án Trường Bộ Kinh

Đôi Dòng Cảm Nghĩ Kính Dâng Lên Bậc Ân Sư

Thật là một phước báu và duyên lành cho hàng Phật tử vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn được hội ngộ với nhà sư Sán Nhiên, bậc thiện tri thức và đại trí huệ, uyên thâm giáo pháp cao siêu Phật đà, đã đem nguồn suối Chánh Pháp Nhãn Tạng tưới mát đời sống tâm linh của chúng con.

Từ khi Sư hiện diện nơi miền đất lành Thủ Đô, chúng con được ấm áp trong tâm từ và tình thương của Sư, cũng như được soi sáng bởi tuệ giác của Sư qua những bài thuyết giảng thâm sâu và dễ hiểu. Bản thân chúng con nói riêng và đại chúng nói chung được thọ hưởng hương vị Pháp Bảo của Như Lai qua pháp âm của Sư để thực tập trong đời sống hằng ngày. Chúng con vô cùng tri ân Sư, nhờ sự giảng dạy Kinh Pháp Cú, Kinh Kiết Tường, và Triết Lý Về Nghiệp hơn 6 tháng qua, mà tâm thức của chúng con được khai mở, khiến cuộc sống của chúng con thêm phần thăng hoa, và chúng con cũng ý thức được phần nào chân lý của đời sống.

Với lối sống giản dị, hài hòa, vui tươi, gần gũi, và thân thiện, Sư đã thu hút được tín tâm của Phật tử. Mặc dù mệt nhọc sau một ngày dài làm việc, các  Phật tử luôn có mặt đông đủ trong lớp học hằng tuần với tấm lòng sẵn sàng và hoan hỷ tiếp nhận linh dược để bồi bổ tâm linh mà Sư đã hết lòng trao truyền.

Ngoài việc giảng dạy giáo lý và hướng dẫn thiền tập, Sư còn hoạch định, điều động, và trông coi công trình trùng tu và phát triển Tâm Pháp Thiền Viện với đại hạnh nguyện là góp phần làm cho bánh xe giáo pháp luôn được luân chuyển. Và với tâm huyết thực hiện Phật sự không hề mệt mỏi, Sư đã phát triển khuôn viên Tâm Pháp Thiền Viện từ một khu rừng rậm rạp vắng vẻ, nay đã mang đầy sắc thái tâm linh với những di tích Phật giáo thanh tịnh, trang nghiêm, khiến ai đặt chân đến thiền viện cũng đều cảm nhận được năng lượng thảnh thơi, an vui, tự tại trong từng mỗi bước chân và hơi thở.

Dòng cảm xúc dạt dào nhưng ngôn từ thì không thể diễn đạt được hết tấm lòng tri ân và trân quí mà chúng con kính dâng lên Sư. Chúng con xin nguyện lắng tâm nghe học giáo pháp nhiệm mầu mà Sư dốc lòng giảng dạy, cũng như xin nguyện tinh tấn hành trì.

Chúng con kính chúc Sư thân tâm thường an lạc, tăng phúc, tăng thọ, hưởng cảnh quả phước như ý nguyện, thành tựu viên mãn công trình phát triển Tâm Pháp Thiền Viện, và nhất là luôn có thật nhiều, thật nhiều niềm vui, niềm tin, và niềm thương trên con đường hướng dẫn Phật tử tu tập và gieo trồng thiện nghiệp. Tâm Hân Huệ (Hội Thiện Đức – Universal Benevolence Foundation).




Nguồn :
https://theravada.vn/giao-an-truong-bo-kinh-doi-dong-cam-nghi-kinh-dang-len-bac-an-su/


 

 ***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8154)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 12166)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 12500)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 11044)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 9281)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 12931)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 11408)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 8993)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 8917)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
09/06/2021(Xem: 18225)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567