Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo Án Trường Bộ Kinh (do Sư Sán Nhiên biên soạn năm 1990)

06/12/202110:16(Xem: 8564)
Giáo Án Trường Bộ Kinh (do Sư Sán Nhiên biên soạn năm 1990)

Giao an Kinh Truong_ Su San Nhien
Giáo Án Trường Bộ Kinh

Ấn Bản 2011

Đại Đức Giáo Thọ Sán Nhiên biên soạn (1990) và hiệu đính (2011)

Tâm Pháp Thiền Viện Saddhamma Meditation Society 574 Willow Brook Road Bumpass, VA 23024


Kỳ Viên Tự Jetavana Vihara

1400 Madison Street Northwest Washington, D.C. 20011

Phone: 202-882-6054

Giới Thiệu Tổng Quát Về Trường Bộ Kinh

Trường Bộ Kinh có 34 bài kinh, với mỗi bài kinh có nội dung rất dài, đề cập trọn đủ một vấn đề, và không lệ thuộc vào bộ kinh nào khác.


Tên gọi của mỗi một bài kinh:

  1. Kinh BRAHMAJÀLA – Kinh Phạm Võng
  2. Kinh SÀMAÑÑAPHALA – Kinh Sa Môn Quả
  3. Kinh AMBATTHA – Kinh A Ma Trú
  4. Kinh SONADANDA – Kinh Chủng Đức
  5. Kinh KÙTADANTA – Kinh Cửu La Đàn Đầu
  6. Kinh MAHÀLI – Kinh Ma Ha Lê
  7. Kinh JALIYA – Kinh Xá Lợi
  8. Kinh KASSAPA SÌHANÀDA – Kinh Ca Diếp Sư Tử Hống
  9. Kinh POTTHAPÀDA – Kinh Bố Thác Bà Lậu
  10. Kinh SUBHA – Kinh Tu Bà
  11. Kinh KEVADHA – Kinh Kiên Cố
  12. Kinh LOHICCA – Kinh Lô Giá
  13. Kinh TEVIJJA – Kinh Tam Minh
  14. Kinh MAHÀPADÀNA – Kinh Đại Bổn
  15. Kinh MAHÀNIDÀNA – Kinh Đại Duyên
  16. Kinh MAHÀPARINIBBÀNA – Kinh Đại Viên Tịch Níp Bàn
  17. Kinh MAHÀ SUDASSANA – Kinh Đại Thiện Kiến Vương
  18. Kinh JANAVASABHA – Kinh Xà Ni Sa
  19. Kinh MAHÀGOVINDA – Kinh Đại Diễn Tôn
  20. Kinh MAHÀSAMAYA – Kinh Đại Hội
  21. Kinh SAKKAPANHÀ – Kinh Đế Thích Sở Vấn
  22. Kinh MAHÀSATIPATTHÀNA – Kinh Đại Niệm Xứ
  23. Kinh PÀYÀSI – Kinh Tệ Túc
  24. Kinh PÀTIKA – Kinh Ba Lê
  25. Kinh UDAMBARIKÀ SÌHANÀDA – Kinh Ưu Đàm Bà La Sư Tử Hống
  26. Kinh CAKKAVATI SÌHANÀDA – Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống
  27. Kinh AGGAÑÑA – Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
  28. Kinh SAMPASÀDANIYA – Kinh Tự Hoan Hỷ
  29. Kinh PÀSÀDIKA – Kinh Thanh Tịnh
  30. Kinh LAKKHANA – Kinh Tướng Trạng
  31. Kinh SIGÀLOVÀDA – Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt
  32. Kinh ATÀNÀTIYA – Kinh A Sá Năng Chí
  33. Kinh SANGÌTI – Kinh Phúng Tụng
  34. Kinh DASUTTARA – Kinh Thập Thượng


Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh.

Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật,  từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.

Bài kinh Sa Môn Quả giới thiệu thứ bậc của một vị xuất gia theo đức Phật, từ khi mới bước chân vào Thiền Môn cho đến khi thành đạt Đạo Quả. Kinh này khéo hệ thống hóa sự tu hành của một vị Sa Môn một cách rõ ràng và mạch lạc, cũng như trình bày những kết quả tốt đẹp và thiết thực do hạnh Sa Môn mang đến.

Bài kinh A Ma Trú bênh vực cho sự bình đẳng giai cấp và bác bỏ nền thống trị giai cấp của Bà La Môn. Qua bài kinh này, đức Phật nhấn mạnh địa vị con người, không thể bằng cứ vào giai cấp, mà phải dựa trên nền tảng giới đức và trí đức của con người.

Với mười bài kinh tiếp theo (từ bài thứ 4 đến 13), thì bài kinh Tu Bà với đại đức Ànanda, nói đến phương pháp tu hành của Sa Môn Gotama sau khi đức Phật vừa mới viên tịch Níp Bàn, tương tự như nội dung của bài kinh Sa Môn Quả, và phân loại theo ba pháp Vô Lậu Học, Giới – Định – Tuệ. Chín bài kinh nối tiếp nêu lên những quan điểm và thái độ của đức Phật đối với những vấn đề xã hội Ấn Độ đương thời, sùng tín nhiệt thành, bất khả thuyết, khổ hạnh, linh hồn, thần thông biến hóa, Phạm Thiên cùng con đường đưa đến Phạm Thiên, và thái độ ích kỷ không thuyết giáo.

Mười bài kinh tiếp theo (từ bài thứ 14 đến 23) đề cập đến giáo lý thuần túy, với Liên Quan Tương Sinh trình bày về 12 lý duyên khởi. Bài kinh Đại Niệm Xứ đề cập đến phương pháp tu hành và nêu lên nét đặc trưng độc nhất đưa đến giải thoát. Bài kinh Viên Tịch Níp Bàn diễn tả lại những ngày cuối cùng của đức Phật và cuộc hành trình tối hậu suốt ba tháng trường, từ thành Vương Xá đi qua các thành phố lớn nhỏ, cuối cùng đến Kusinarà và viên tịch Níp Bàn, mang một tầm vóc lịch sử rất có giá trị trên con đường truyền giáo của Ngài, v.v…

Tiếp theo là những bài kinh khuyến khích đời sống tu tập của các vị tỳ khưu, hãy tự sống với chính mình, là ngọn đuốc cho chính mình, và giữ gìn oai nghi chánh hạnh. Phủ nhận giá trị tối thượng của giai cấp Bà La Môn và xác nhận sự bình đẳng của bốn giai cấp theo hành vi Thiện Ác của mình. Lấy Chánh Pháp là vị tối thượng, dù là thuộc giai cấp nào đi nữa, vì Pháp là tối thượng.

Bài kinh Tự Hoan Hỷ nói lên lòng tin tưởng vô biên của đại đức Xá Lợi Phất đối với đức Phật bởi vì đại đức Xá Lợi Phất biết đến truyền thống Chánh Pháp, tất cả bậc Chánh Đẳng Giác đã diệt trừ Ngũ Triền Cái, an trú trong Tứ Niệm Xứ, tu hạnh Thất Giác Chi, và chứng đắc Vô Thượng Giác.

Với bài kinh Thanh Tịnh, đức Phật khuyên chư tỳ khưu nên sống hòa hợp, dung hòa, tương thân tương kính, không nên tranh chấp cãi cọ với nhau.

Với bài kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt, đức Phật giải thích ý nghĩa và giá trị trong việc lễ bái Lục Phương, là diệt trừ bốn nghiệp phiền não, không làm điều ác theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân phung phí tài sản. Đức Phật giải thích rõ ràng từng phương một trong Lục Phương. Phương Đông chỉ cho Cha Mẹ – Con Cái, phương Nam chỉ cho Thầy – Trò, phương Tây chỉ cho Vợ – Chồng, phương Bắc chỉ cho Bạn Hữu, phương Dưới chỉ cho Chủ – Tớ, và phương Trên chỉ cho Sa Môn – Bà La Môn. Chính những sự đối xử tương xứng tạo ra sự an lạc, hoan hỷ cho cả Lục Phương.

Với bài kinh A Sá Năng Chí, được đức Phật thuận ý, vua Tỳ Sa Môn giới thiệu học chú (kàthà) để khởi lòng tin cho hàng Dạ Xoa và cũng để che chở hộ trì Tứ Chúng.

Hai bài kinh cuối cùng, Kinh Phúng Tụng và Kinh Thập Thượng, do đại đức Xá Lợi Phất thuyết giảng với các Pháp Số từ một đến mười, tóm lược và giải thích các Pháp mà đức Phật đã khéo thuyết giảng, phân loại từ một chi Pháp đến mười chi Pháp, với mục đích ôn lại những lời giảng dạy của đức Phật cho được tròn đủ, không thiếu sót, và tránh khỏi sự tranh luận. Hai bài kinh cuối này rất quan trọng  vì mở đầu cho các học giả được thuận duyên tu học Tạng Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma) sau này.

Xuyên qua 34 bài kinh thuộc Trường Bô Kinh, học giả hội túc duyên sẽ lãnh hội nhiều lợi lạc trong việc tu học và trau giồi trí tuệ, ngõ hầu tiến tới Đạo Quả giải thoát Níp Bàn.

*Các bài trích trong cuốn Giáo Án Trường Bộ Kinh của Tỳ Khưu PASÀDO Sán Nhiên. Nguồn Vietheravada.

Giáo Án Trường Bộ Kinh

Đôi Dòng Cảm Nghĩ Kính Dâng Lên Bậc Ân Sư

Thật là một phước báu và duyên lành cho hàng Phật tử vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn được hội ngộ với nhà sư Sán Nhiên, bậc thiện tri thức và đại trí huệ, uyên thâm giáo pháp cao siêu Phật đà, đã đem nguồn suối Chánh Pháp Nhãn Tạng tưới mát đời sống tâm linh của chúng con.

Từ khi Sư hiện diện nơi miền đất lành Thủ Đô, chúng con được ấm áp trong tâm từ và tình thương của Sư, cũng như được soi sáng bởi tuệ giác của Sư qua những bài thuyết giảng thâm sâu và dễ hiểu. Bản thân chúng con nói riêng và đại chúng nói chung được thọ hưởng hương vị Pháp Bảo của Như Lai qua pháp âm của Sư để thực tập trong đời sống hằng ngày. Chúng con vô cùng tri ân Sư, nhờ sự giảng dạy Kinh Pháp Cú, Kinh Kiết Tường, và Triết Lý Về Nghiệp hơn 6 tháng qua, mà tâm thức của chúng con được khai mở, khiến cuộc sống của chúng con thêm phần thăng hoa, và chúng con cũng ý thức được phần nào chân lý của đời sống.

Với lối sống giản dị, hài hòa, vui tươi, gần gũi, và thân thiện, Sư đã thu hút được tín tâm của Phật tử. Mặc dù mệt nhọc sau một ngày dài làm việc, các  Phật tử luôn có mặt đông đủ trong lớp học hằng tuần với tấm lòng sẵn sàng và hoan hỷ tiếp nhận linh dược để bồi bổ tâm linh mà Sư đã hết lòng trao truyền.

Ngoài việc giảng dạy giáo lý và hướng dẫn thiền tập, Sư còn hoạch định, điều động, và trông coi công trình trùng tu và phát triển Tâm Pháp Thiền Viện với đại hạnh nguyện là góp phần làm cho bánh xe giáo pháp luôn được luân chuyển. Và với tâm huyết thực hiện Phật sự không hề mệt mỏi, Sư đã phát triển khuôn viên Tâm Pháp Thiền Viện từ một khu rừng rậm rạp vắng vẻ, nay đã mang đầy sắc thái tâm linh với những di tích Phật giáo thanh tịnh, trang nghiêm, khiến ai đặt chân đến thiền viện cũng đều cảm nhận được năng lượng thảnh thơi, an vui, tự tại trong từng mỗi bước chân và hơi thở.

Dòng cảm xúc dạt dào nhưng ngôn từ thì không thể diễn đạt được hết tấm lòng tri ân và trân quí mà chúng con kính dâng lên Sư. Chúng con xin nguyện lắng tâm nghe học giáo pháp nhiệm mầu mà Sư dốc lòng giảng dạy, cũng như xin nguyện tinh tấn hành trì.

Chúng con kính chúc Sư thân tâm thường an lạc, tăng phúc, tăng thọ, hưởng cảnh quả phước như ý nguyện, thành tựu viên mãn công trình phát triển Tâm Pháp Thiền Viện, và nhất là luôn có thật nhiều, thật nhiều niềm vui, niềm tin, và niềm thương trên con đường hướng dẫn Phật tử tu tập và gieo trồng thiện nghiệp. Tâm Hân Huệ (Hội Thiện Đức – Universal Benevolence Foundation).




Nguồn :
https://theravada.vn/giao-an-truong-bo-kinh-doi-dong-cam-nghi-kinh-dang-len-bac-an-su/


 

 ***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2020(Xem: 12036)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
08/08/2020(Xem: 4758)
Ở đời có những cuộc từ giã hùng tráng gây ấn tượng như tạo nguồn cảm hứng sâu đậm trong lòng người qua lịch sử đương thời và mai sau. Điều đó đủ chứng minh tiền nhân có lý do xác đáng để khước từ quá khứ tù hãm, nhắm hướng tương lai không chỉ cho riêng mình mà còn nghĩ tới đồng loại và chúng sanh. Những cuộc từ giã hay nói chính xác hơn là những cuộc vượt thoát can trường mới diễn tả đúng ngữ nghĩa và ngữ cảnh của mỗi sự kiện mà tôi cho rằng ở trong ba thời kỳ: cổ đại, trung hưng và hiện đại.
08/08/2020(Xem: 4222)
Nghĩ cho cùng cuộc đời dài của con người chính là những bước đi - không hơn không kém. Đó là những bước khập khiễng từ khi lọt lòng mẹ cho đến các bước run rẩy trước khi bước vào quan tài. Điều quan trọng nhất là kẻ lữ hành phải luôn sáng suốt và lạc quan để nhận biết “mùa xuân phía trước”. Dầu sao đi nữa, dù muốn hay không mình vẫn phải bước đi.
08/08/2020(Xem: 4186)
Hôm nay là ngày 4 tháng 6 năm 2002 nhằm ngày 24 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 34 của mình với nhan đề là: “Cảm Tạ Xứ Đức”. Trong mùa an cư kiết hạ này tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm để sau đó còn cho dịch ra tiếng Đức, nhằm cho người Đức cũng có thể xem và hiểu nhiều hơn về một dân tộc ở rất xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng tại quê hương này đã cưu mang họ hơn 25 năm nay trong bàn tay từ ái đón nhận những người tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam đến tạm dung, sinh sống tại xứ Đức này.
02/08/2020(Xem: 6599)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
06/07/2020(Xem: 27624)
Trước hết cám ơn sanh thành và nuôi dưỡng của bố mẹ, cho tôi một đời đáng sống này. Kế đến cám ơn người bạn đường, chịu nhiều khổ cực ròng rã trong suốt 10 năm qua giúp tôi hoàn thành thiên Tổng luận Đại Bát Nhã Ba La Mật này. Sau nữa chân thành cám ơn những nhân vật sau đây đã đem lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống tâm linh của chúng tôi: 1. Đức ngài Minh Đăng Quang, Tổ của Tông khất thực Việt Nam, và cũng là người đặt pháp danh cho tôi là Thiện Bửu lúc tôi mới 13 tuổi đời khi tôi thọ giáo qui y với ngài; 2. Chân thành cám ơn đức thầy Thích Thiện Hoa, người hóa đạo cho tôi 3. Sau nữa cám ơn Thiền sư D.T. Suzuki, người được xem như là Bồ tát trong thời đại mới, đã có công xiển dương đạo Phật tại các quốc gia Tây Âu và cũng là người đã mỡ con mắt đạo cho tôi về Tánh không Bát nhã. Sau cùng, cám ơn những ai đã từng khổ nhọc hy sinh công của góp phần xây dựng lâu đài Phật đạo Việt nam nói riêng và thế giới nói chung, nhờ đó chúng tôi có đầy đủ chất liệu để học, để
02/07/2020(Xem: 7122)
Báo Chánh Pháp, số 104, tháng 07.2020. NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ NGÀY RĂM THÁNG TƯ CANH TÝ - 2020 (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ BỜ CÕI THANH TÂN (thơ Mặc Phương Tử), trang 14 ¨ KHÔNG NÊN VỘI TIN, CŨNG KHÔNG NÊN BÀI BÁC (Quảng Tánh), trang 15 ¨ PHƯỚC SƠN HÒA THƯỢNG TÁN (Thích Chúc Hiền), trang 16 ¨ HẠNH BỒ TÁT VÀ KINH KIM CƯƠNG (Nguyên Giác), trang 18
30/06/2020(Xem: 10050)
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang. Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
30/06/2020(Xem: 10254)
Báo chí Phật giáo Việt Nam thực sự khai sinh và phát triển từ khi có phong trào chấn hưng Phật giáo vào thập niên 1930. Từ lúc ra đời, báo chí Phật giáo đã trở thành một phương tiện quan trọng làm lan tỏa tư tưởng chấn hưng Phật giáo, thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp, xây dựng nền văn học Phật giáo và giữ gìn di sản văn hóa cổ Việt Nam. Tuy giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo và mang lại nguồn sử liệu quan trọng giúp thế hệ sau tìm hiểu, nghiên cứu nhưng do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, đến nay, báo chí Phật Giáo Việt Nam vẫn chưa có một trung tâm lưu trữ đầy đủ. Công việc bảo tồn và phát huy giá trị về tư liệu mà báo chí mang lại đến nay vẫn là một nỗi trăn trở cho những người yêu mến tư liệu báo chí Phật giáo Việt Nam nói riêng và về tư liệu Phật giáo Việt Nam nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567