Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Phẩm “Duyên Khởi”

15/01/202107:42(Xem: 8718)
01. Phẩm “Duyên Khởi”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-531


 


 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 I. PHẨM “DUYÊN KHỞI”

Phần đầu quyền 566, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với các phẩm “Duyên Khởi” của các Hội trước)

 

 

Gợi ý:

Phẩm này của Hội thứ VI, nhập chung hai phẩm “Duyên Khởi” và “Thông Đạt” của Kinh ĐBN làm một và đặt tên là Thông Đạt.

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 566

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Bạc Già Phạm (Phật) ngự ở đỉnh núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng với chúng đại Bí sô bốn vạn hai ngàn người đều là bậc A la hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được tập luyện, cũng như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ gánh nặng, đã đạt được lợi ích, dứt hết các kiết sử, chánh trí giải thoát, tâm được tự tại rốt ráo đệ nhất. Các Ngài đó là: Cụ thọ Giải Kiều Trần Na, Đại Ca Diếp Ba, Cấp Phòng Bát để, Hạt Lệ Phiệt Đa, Đại Thải Thục Để, Đại Ca Đa Diễn Na, Tất Lan Đà Phiệt Ra, Xá Lợi Tử, Mãn Từ Tử, Bạt Câu La, Ưu Ba Ly, La Lổ La, Vô Diệt Thiện Hiện làm thượng thủ. Trừ một mình A Nan Đà còn ở địa vị hữu học đắc quả Dự lưu.

Lại có bảy vạn hai ngàn đại Bồ Tát đều đã thông đạt pháp tánh sâu xa, đã điều thuận dễ hóa, diệu hạnh bình đẳng, đắc pháp môn Đà la ni vô ngại biện, là bạn lành chơn tịnh của tất cả hữu tình, có thể chuyển vận bánh xe chánh pháp vi diệu bất thối, thương xót thế gian, hộ trì tạng pháp, đã từng cúng dường vô lượng Như Lai, tiếp nối làm hưng thịnh ba ngôi báu, thường khiến cho không dứt tuyệt, thông đạt cảnh giới sâu xa của chư Phật, còn một đời làm đệ tử chơn thật của đấng Pháp vương, thường có thể tiếp nối Phật, chuyển vận bánh xe chánh pháp; mặc dù ở thế gian nhưng không bị nhiễm. Các Ngài đầy đủ vô lượng công đức như thế, từ nước Phật này hoặc từ phương khác, vì nghe pháp nên đi đến chỗ Phật. Đó là: Bồ Tát Bảo Tướng, Bồ Tát Bảo Thủ, Bồ Tát Bảo Ấn, Bồ Tát Bảo Kế, Bồ Tát Bảo Quang, Bồ Tát Bảo Phong, Bồ Tát Bảo Hải, Bồ Tát Bảo Diễm, Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Bảo Tạng, Bồ Tát Kim Tràng, Bồ Tát Tịnh Tạng, Bồ Tát Đức Tạng, Bồ Tát Định Tạng, Bồ Tát Trí Tạng, Bồ Tát Nhật Tạng, Bồ Tát Nguyệt Tạng, Bồ Tát Như Lai Tạng, Bồ Tát Liên Hoa Tạng, Bồ Tát Kim Cang Tạng, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Phổ Âm, Bồ Tát Phổ Giới, Bồ Tát Phổ Hành, Bồ Tát Phổ Nhãn, Bồ Tát Quảng Nhãn, Bồ Tát Liên Hoa Nhãn, Bồ Tát Trí Tuệ, Bồ Tát Thượng Tuệ, Bồ Tát Thắng Tuệ, Bồ Tát Liên Hoa Tuệ, Bồ Tát Kim Cang Tuệ, Bồ Tát Nhật Quang, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Trí Quang, Bồ Tát Trí Đức, Bồ Tát Hiền Đức, Bồ Tát Hoa Đức, Bồ Tát Nhật Quán, Bồ Tát Nguyệt Quán, Bồ Tát Vô Nhiễm, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Đại Âm Vương, Bồ Tát Sư Tử Hống, Bồ Tát Sư Tử Du Hý, Bồ Tát Hiền Thủ, Bồ Tát Thập Lục Hiền, Bồ Tát Từ Thị v.v...

Các Bồ Tát ở Hiền kiếp: Bồ Tát Quán Tự Tại, Bồ Tát Diệu Cát Tường làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chúng trời: Tứ Đại vương, Tứ Đại Thiên vương làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Ba mươi ba, Thiên vương Đế Thích làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Dạ ma, Thiên vương Tô dạ ma làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Đổ sử đa, Thiên vương San đổ sử đa làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Nhạo Biến Hóa, Thiên vương Thiện Hóa làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Tha Hóa Tự Tại, Thiên vương Tự Tại làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Phạm Chúng v.v... Thiên vương Đại Phạm làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Tịnh Cư, trời Tự Tại làm thượng thủ... Các Thiên vương ấy dẫn quyến thuộc đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng vua A tu la, trong đó có: Vua A tu la Cụ Lực, vua A tu la Kiêm Uẩn, vua A tu la Tạp Oai, vua A tu la Bộc Chấp làm thượng thủ, đều thống lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng Đại Lực Long vương, trong đó có: Long vương Vô Nhiệt, Long vương Mãnh Ý, Long vương Hải Trụ, Long vương Công Xảo làm thượng thủ, đều thống lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng Đại thần Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... và các quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng khoảng bốn mươi do tuần, đầy dẫy đại chúng, mặt đất và hư không, chẳng có chỗ xen hở.

Thế Tôn ngồi ở tòa Sư tử, vô lượng đại chúng vây quanh trước sau, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, chấp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan.

Như Lai hiện năng lực thần thông, từ nơi miệng phát ra các thứ hào quang muôn sắc chiếu khắp vô biên thế giới trong mười phương, hiện việc hy hữu rồi các hào quang quay về chỗ Phật, lượn quanh bên phải ba vòng và chui vào diện môn.

Bấy giờ, ở phương Đông, cách cõi Phật này hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật tên là Trang Nghiêm, Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn (Bạc già phạm), khi ấy đang an ẩn trụ trì cõi kia, tuyên thuyết chánh pháp tương ưng với Nhất thừa cho các chúng đại Bồ Tát. Ở thế giới của Phật kia, từ Nhị thừa còn chẳng nghe, huống là có người siêng năng tu tập pháp đó. Các Bồ Tát kia đều đắc Bất thối chuyển, các hữu tình kia chẳng thọ thực như cõi phàm, chỉ sống bằng thiền định giải thoát. Cõi đó chẳng cần ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, chỉ có hào quang nơi thân Phật ngày đêm thường chiếu. Cõi đó không có gai độc, sỏi đá, khe, lạch, hang, núi, gò… đất bằng như bàn tay. Ở đó có Bồ Tát tên là Ly Chướng, thấy hào quang này, tâm còn do dự, cùng các chúng đại Bồ Tát đi đến trước Phật cõi đó, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật (1):

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà có điềm lành này?

Khi ấy, Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng:

- Về phương Tây, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích ca Mâu ni Như Lai, mười hiệu đầy đủ, đang thuyết Đại Bát nhã Ba la mật cho các chúng đại Bồ Tát. Do nhân duyên này nên hiện điềm lành.

Bồ Tát Ly Chướng nghe xong, bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nay con xin qua thế giới Kham Nhẫn quan sát, đảnh lễ, cúng dường Như Lai Thích ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng:

- Nay đã đúng thời, ngươi nên mau đi.

Bồ Tát Ly Chướng được Phật cho phép, vui mừng hớn hở liền cùng với vô lượng chúng Bồ Tát đồng đi đến Thứu Phong, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui ngồi một bên.

 

Về phương Nam, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh Hoa, Phật hiệu Nhật Quang, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Nhật Tạng.

 

Về phương Tây, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Bảo Hoa, Phật hiệu Công Đức Quang Minh, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Công Đức Tạng.

 

Về phương Bắc, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh, Phật hiệu Tự Tại Vương, ở đó có Bồ Tát tên là Quảng Văn.

 

Về phương Đông Nam, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Hỏa Diệm, Phật hiệu Cam Lồ Vương, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Bất Thối Chuyển.

 

Về phương Tây Nam, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh Công Đức, Phật hiệu Trí Cự, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Đại Tuệ.

 

Về phương Tây Bắc, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Duyệt Ý, Phật hiệu Diệu Âm Vương, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Công Đức Tụ.

 

Về phương Đông Bắc, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Tuệ Trang Nghiêm, Phật hiệu Trí Thượng, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Thường Hỷ.

 

Về phương Trên, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Bất Động, Phật hiệu Kim Cang Tướng, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Bảo Tràng.

 

Về phương Dưới, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Nguyệt Quang Minh, Phật hiệu là Kim Cang Bảo Trang Nghiêm Vương, mười hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Bảo Tín.

Như thế, tất cả đều như phương Đông, có nghĩa là các Bồ Tát (ở chín phương khác) xin phép chư Phật cõi mình đến thế giới Kham Nhẫn cúng dường Như Lai Thích Ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp.

 

Sơ giải:

 

Cũng nên lược thuật sơ qua quan cảnh buổi lể cùng các thành phần tham dự của pháp hội thứ VI này:

- Địa điểm của pháp hội tổ chức tại đỉnh Linh Thứu, núi Kỳ Xà Quật, thuộc thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà.

- Thính giả ở cõi nước Kham Nhẫn là Tăng đoàn gồm 1250 Bí sô nam, ngoài ra có 500 Bí sô nữ, cư sĩ, và các đại Bồ Tát trong đó có Từ Thị Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát… cùng vô số các Thiên Vương, Thiên tử, người không phải người thuộc thế giới Kham Nhẫn tham dự.

- Thính giả ở cõi khác của 10 phương thế giới: Ở phương Đông, có Bồ Tát tên là Ly Chướng; ở phương Nam, có Bồ Tát tên là Nhật Tạng; ở phương Tây, có Bồ Tát tên là Công Đức Tạng; ở phương Bắc, có Bồ Tát tên là Quảng Văn; ở phương Đông-Nam, có Bồ Tát tên là Bất Thối Chuyển; ở phương Tây-Nam, có Bồ Tát tên là Đại Tuệ; ở phương Tây-Bắc, có Bồ Tát tên là Công Đức Tụ; ở phương Đông-Bắc, có Bồ Tát tên là Thường Hỷ; ở phương Trên, có Bồ Tát tên là Bảo Tràng; và ở phương Dưới, có Bồ Tát tên là Bảo Tín. Tất cả Bồ Tát ấy thấy có hào quang muôn sắc chiếu khắp vô biên thế giới trong 10 phương, không biết tại sao có điềm lạ thường này, nên hỏi chư Phật của các cõi ấy. Và được chư Phật ở 10 phương trả lời là:

Cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích ca Mâu ni Như Lai, mười hiệu đầy đủ, đang thuyết Đại Bát Nhã Ba La Mật cho các chúng đại Bồ Tát. Do nhân duyên này nên mới hiện điềm lành.

Các Bồ Tát được nghe điều hi hữu này đồng thanh xin chư Phật 10 phương: Nay muốn qua thế giới Kham Nhẫn quan sát, đảnh lễ, cúng dường Như Lai Thích Ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp. Tất cả chư Phật 10 phương đồng ý cho các Bồ Tát cõi mình được sang thế giới Kham Nhẫn đãnh lễ Phật Thích ca Mâu ni và chư Bồ Tát cõi này và thỉnh pháp. Đó là duyên khởi của pháp hội thứ VI này.

Phần mở đầu của phẩm này, liệt kê tất cả nhân vật tham dự pháp hội tỉ mỉ hơn các Hội trước. Nhưng quang cảnh của buổi Hội không tưng bừng lộng lẫy giống như buổi hội tại đỉnh Linh Thứu như phẩm “Duyên Khởi” của Hội thứ I. Ngoài ra, nhất nhất đều giống như các phẩm “Duyên Khởi” của tất cả các Hội đã kể.

 

Chỉ cần đọc một phẩm trong các phẩm “Duyên Khởi” cũng tạm đủ. Ở đây Kinh thuyết theo lối trần thuật, ai đọc cũng có thể hiểu. Như vậy quá đủ, không cần dong dài, dành thời giờ để đọc tụng thọ trì các phẩm khó khăn tiếp theo./.

 

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2016(Xem: 22608)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
06/01/2016(Xem: 19729)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
23/07/2015(Xem: 15420)
Kinh Pháp Hoa. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
23/07/2015(Xem: 30237)
Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng (trọn bộ 8 quyển)
06/07/2015(Xem: 19753)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
12/04/2015(Xem: 16093)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
04/02/2015(Xem: 30996)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
07/01/2015(Xem: 16518)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
02/12/2014(Xem: 25726)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]