Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ II

06/08/202014:27(Xem: 8861)
Hội Thứ II

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


 

II. PHẦN HAI, HỘI THỨ II.

(bố cục)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

với các phẩm:

 

01. Phẩm “Duyên Khởi”

02. Phẩm “Hoan Hỉ”

03. Phẩm “Quán Chiếu”           

04. Phẩm “Vô Đẳng Đẳng”      

05. Phẩm “Tướng Lưỡi”           

06. Phẩm “Thiện Hiện”                                

07. Phẩm “Vào Ly Sanh”

08. Phẩm “Thắng Quân”              

09. Phẩm “Hành Tướng”          

10. Phẩm “Huyễn Dụ”                  

11. Phẩm “Thí Dụ”          

12. Phẩm “Đoạn Chư Kiến”               

13. Phẩm “Sáu Pháp Đáo Bỉ Ngạn”        

14. Phẩm “Đại Thừa”               

15. Phẩm “Không Buộc Không Mở”      

16. Phẩm “Tam Ma Địa”

17. Phẩm “Niệm Trụ Đẳng”     

18. Phẩm “Tu Trị Địa”

19. Phẩm “Xuất Trụ”

20. Phẩm “Siêu Thắng”

21. Phẩm “Vô Sở Hữu”            

22. Phẩm “Tùy Thuận”

23. Phẩm ‘Vô Biên Tế”            

24. Phẩm “Viễn Ly”                    

25. Phẩm “Đế Thích”               

26. Phẩm “Tín Thọ”                      

27. Phẩm “Rải Hoa”

28. Phẩm “Trao Ký”                          

29. Phẩm “Nhiếp Thọ”

30. Phẩm “Bảo Tháp”

31. Phẩm “Phước Sanh”

32. Phẩm “Công Đức”

33. Phẩm “Ngoại Đạo”

34. Phẩm “Trời Đến”

35. Phẩm “Thiết Lợi La Hay Xá Lợi”

36. Phẩm “Kinh Văn”

37. Phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”

38. Phẩm “Đại Sư”

39. Phẩm “Địa Ngục”

40. Phẩm “Thanh Tịnh”

41. Phẩm “Không Nêu Cờ”

42. Phẩm “Bất Khả Đắc”

43. Phẩm “Phương Đông Bắc”

44. Phẩm “Ma Sự”

45. Phẩm “Chẳng Hòa Hợp”

46. Phẩm “Phật Mẫu”

47. Phẩm “Chỉ Tướng”

48. Phẩm “Thành Biện”

49. Phẩm “Dụ Thuyền Thảy”

50. Phẩm “Sơ Nghiệp”

51. Phẩm “Điều Phục Tham Đẳng”

52. Phẩm “Chơn Như”

53. Phẩm “Bất Thối Chuyển”

54. Phẩm “Giáo Nghĩa Thẳm Sâu”

55. Phẩm “Mộng Hành”

56. Phẩm “Hạnh Nguyện”

57. Phẩm “Trời Căng Già”

58. Phẩm “Tập Cận”

59. Phẩm “Tăng Thượng Mạn”

60. Phẩm “Đồng Học”              

61. Phẩm “Đồng Tánh”

62. Phẩm “Không Phân Biệt”   

63. Phẩm “Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố”

64. Phẩm “Thật Ngữ”               

65. Phẩm “Vô Tận”           

66. Phẩm “Tương Nhiếp”         

67. Phẩm “Xảo Tiện”      

68. Phẩm “Thọ Dụ” Hay “Dụ Cây”         

69. Phẩm “Bồ Tát Hạnh”          

70. Phẩm “Thân Cận”   

71. Phẩm “Học Tất Cả Hay Biển Học”       

72. Phẩm “Lần Hồi”

73. Phẩm “Vô Tướng”

74. Phẩm “Không Tạp”

75. Phẩm “Các Đức Tướng”

76. Phẩm “Thiện Đạt”

77. Phẩm “Thật Tế”

78. Phẩm “Vô Khuyết”

79. Phẩm “Đạo Sĩ”

80. Phẩm “Chánh Định”

81. Phẩm “Phật Pháp”

82. Phẩm “Vô Sự”

83. Phẩm “Nói Thật”

84. Phẩm “Tánh Không”

 

---o0o---

 

 

 

II. PHẦN HAI, HỘI THỨ II.

(bố cục)

 

 

2. Phần hai gọi là Đại bản (Phạm: Paĩcaviôzatisàhasrikà-prajĩàpàramità) gồm 78 quyển kế tiếp, tức Hội thứ II: Về nghĩa thì giống nhau, nhưng văn thì ngắn gọn hơn, sự thay đổi các phẩm cũng khác và thiếu ba phẩm Thường Đề, Pháp Dũng v.v... Tương đương với 25.000 kệ tụng Bát Nhã hiện còn. Bản dịch Tây tạng chia làm 76 phẩm, trong có các phẩm Thường Đề, Pháp Dũng v.v... Theo bài tựa của hội thứ II do Ngài Huyền Tắc ở chùa Tây minh soạn, thì các Kinh như: Phóng Quang Bát Nhã 20 quyển do Ngài Vô Xoa La dịch vào đời Tây Tấn, Kinh Quang Tán (thiếu nửa sau) 10 quyển do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa 27 quyển (còn gọi là đại bản) do Ngài Cưu Ma La thập dịch vào đời Diêu Tần v.v... đều là những bản dịch khác của hội này.

 

Phần hai, Hội thứ II của Kinh MHBNBLMĐ cũng chẳng khác gì phần một, Hội thứ I, ĐBN: Tất cả giáo lý cơ cảnh, tín giải hành chứng cùng kỹ thuật tu trì, quán chiếu... đều giống nhau, không khác. Có thể nói “cũng cùng một thứ rượu, chỉ khác bình”. Về hình thức, cách chia phẩm và tựa có khác đôi chút. Còn nội dung văn từ cô động, gãy gọn hơn. Nếu độc giả lo ngại sự tóm lược của chúng tôi ở phần một, Hội thứ I thiếu sót, cắt xén hay thay đổi thêm thắt... thì sự trình bày tóm lược ở phần hai, Hội thứ II này “nguyên chất” hơn. Để Quý vị có dịp so sánh, đối chiếu: Ở đầu mỗi phẩm của Hội thứ II, chúng tôi có ghi tên phẩm, đánh số quyển tương đương với Hội thứ I, Quý vị chỉ cần theo chỉ dẫn đó tra cứu, so chiếu cho đỡ mất thời giờ và dễ nắm vững toàn bộ Đại Bát Nhã mà không phải nhọc nhằn tìm kiếm!

Tuy nói 2 Hội không khác, không có nghĩa là đọc Hội thứ I cũng tạm đủ, không cần đọc thêm Hội thứ II cho đến hết Hội thứ VI nữa. Mặc dù, cả hình thức lẫn nội dung của 6 Hội tương đương nhau. Tuy nhiên, trên phương diện trình bày và dẫn ý, có Hội chúng tôi giải thích và luận giải tỉ mỉ, có Hội chúng tôi chỉ lược tóm. Riêng Hội này chúng tôi thích nghĩa ít hơn Hội thứ I, nhưng lại giải luận nhiều hơn. Những gì chúng tôi đã chiết giải ở Hội thứ I, chúng tôi không muốn trùng tuyên. Tuy nhiên, để thay đổi không khí và để Quý vị lãnh hội đầy đủ Hội thứ II này chúng tôi dẫn chứng thêm lời giải luận của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận bổ túc thêm.

Đối với độc giả thì sư trì tụng là cần thiết. Vì trì tụng có nghĩa là đọc tới đọc lui nhiều lần, mới có thể thâm nhập được Bát Nhã. Lời khuyên của chúng tôi là nên đọc cả sáu Hội đầu, sau đó trì tụng hay thọ trì Hội nào mà mình thích cũng được.

Cũng nên nói thêm rằng: Bộ Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọ biên soạn, căn cứ vào kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa(tức Hội thứ II), HT Thích Trí Tịnh có dịch Kinh này từ Hán sang Việt, đã xuất bản và đồng thời đăng tải rộng rãi trên các mạng Phật học.

Khi bộ Luận Đại Trí Độ ra đời, chính Ngài La Thập nhóm họp 500 thiện trí thức cấm túc tại Tiêu Diêu Viên Đường ở Lâm Giang, nghiên cứu huyền chương, khảo chánh nghĩa và lược dịch từ 1.000 quyển, cô đọng lại thành 5 tập, 100 quyển vào thời Diêu Tần. Đại Trí Độ Luận là bộ thích luận đồ sộ giải thích các giáo lý do Phật thuyết ở Hội thứ II (một trong 16 pháp Hội của Kinh Đại Bát Nhã), được HT Thích Thượng Siêu và Ni Trưởng TN Diệu Không dịch từ Hán sang Việt. Đây là một bộ luận do Bồ Tát Long Thọ, Tổ thứ XIV của dòng Thiền Tây thiên-Ấn, truyền thừa từ Đức Thích Ca Mâu Ni, bậc thật tu thật chứng thực hiện, giúp ích rất nhiều trong việc học hỏi thọ trì kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật, mà Quý vị cần tham khảo nếu muốn thâm hiểu hay thành đạt Bát nhã Ba la mật.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2016(Xem: 22608)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
06/01/2016(Xem: 19728)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
23/07/2015(Xem: 15420)
Kinh Pháp Hoa. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
23/07/2015(Xem: 30237)
Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng (trọn bộ 8 quyển)
06/07/2015(Xem: 19753)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
12/04/2015(Xem: 16093)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
04/02/2015(Xem: 30994)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
07/01/2015(Xem: 16518)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
02/12/2014(Xem: 25726)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]