Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

42. Phẩm "Chẳng Nghĩ Bàn" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

04/07/202008:49(Xem: 9653)
42. Phẩm "Chẳng Nghĩ Bàn" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

Phẩm Chẳng Nghĩ Bàn_photo

  

PHẨM "CHẲNG NGHĨ BÀN"

 

Phần sau quyển 308 đến phần đầu quyển 310, Hội thứ I, ĐBN.

(Phẩm nầy tương đương với phẩm “Thành Biện” quyển thứ 17, MHBNBLM)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh

Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước





 

Tóm lược:

 

Bát nhã Ba la mật thậm thậm vì việc lớn mà xuất hiện ở đời; Bát Nhã vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; Bát Nhã vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện ở đời; Bát Nhã vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện ở đời, Bát Nhã vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện ở đời.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy việc cứu độ khắp tất cả hữu tình không ngưng nghỉ làm việc lớn nầy mà xuất hiện ở đời.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên pháp tánh, Nhất thiết trí tánh đều là việc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có hạn lượng, không có gì sánh bằng mà xuất hiện trên đời.

Chẳng phải chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn được, chẳng thể xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng mà Sắc cũng chẳng nghĩ bàn, chẳng xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Thọ tưởng hành thức cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Mười hai xứ, mười tám giới, và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Ở trong chơn pháp tánh, tâm và tâm sở chẳng thể nắm bắt được.

Tánh sắc chẳng thể thi thiết(1), chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh 12 xứ, tánh 18 giới và tánh của tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Duyên cớ gì mà nói tánh sắc chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, v.v...? Duyên cớ gì mà nói tánh 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật cũng như thế?

tánh của sắc, vì tánh của thọ tưởng hành thức, vì tánh của tất cả pháp Phật chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng.

Duyên cớ gì mà nói tánh sắc, tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng? Duyên cớ gì mà nói tánh mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định v.v… nói chung là các pháp Phật chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng được?

tánh sắc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Vì không có tự tánh, nên tánh sắc chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng. Tự tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, hạn lượng v.v... Vì không có tự tánh, nên tánh thọ tưởng hành thức chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, hạn lượng v.v... Tự tánh 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, chẳng có hạn lượng v.v... Vì không có tự tánh, nên tánh 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường v.v... cũng lại như thế.

Phật hỏi Tu Bồ đề:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của sắc, sắc có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thì tất cả pháp ấy có thể nắm bắt được chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Thiện Hiện! Đúng vậy! Do nhân duyên này, nên nói tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng nên Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì dứt nghị luận. Chẳng thể xưng lường, vì dứt xưng lường. Không hạn lượng, vì dứt so lường. Không gì sánh bằng, vì dứt so sánh hơn thua vậy. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì vượt quá luận bàn vậy. Chẳng thể xưng lường, vì vượt quá xưng lường vậy. Không hạn lượng, vì vượt quá hạn lượng vậy. Không gì sánh bằng, vì vượt quá so sánh hơn thua vậy. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì so sánh được.

Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng là chỉ có trên phương diện ngôn thuyết. Tất cả đều giống như hư không. Vì hư không chẳng thể so sánh, xưng tán được: Chẳng thể nghĩ bàn là chẳng thể nghĩ bàn như hư không; chẳng thể xưng lường là chẳng thể xưng lường như hư không; không hạn lượng là không có giới hạn như hư không; không gì sánh bằng là không có gì có thể so sánh với hư không.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp; Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A tu la thảy đều chẳng thể nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, so sánh. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng khá xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Khi đức Phật nói pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng như thế, trong hội chúng có năm trăm Bí sô chẳng còn các lậu hoặc(2), tâm được giải thoát; lại có hai ngàn Bí sô ni cũng chẳng còn mắc các lậu hoặc, tâm được giải thoát; lại có sáu vạn nam cư sĩ, đối với các pháp xa lìa trần cấu(3), phát sanh pháp nhãn thanh tịnh; lại có ba vạn bảy ngàn nữ cư sĩ, đối với các pháp cũng lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh; lại có hai vạn đại Bồ Tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, được thọ ký thành Phật ở trong Hiền kiếp.

 

Thích nghĩa:

(1). Thi thiết: 1- Phương pháp hoặc hệ thống được thiết lập tạm thời, đồng nghĩa với an lập: Trình bày, đưa ra các pháp môn khác nhau, như Kinh, Luận, Thiền và tham công án; 2- Giả định, giả lập; 3- Lập ra một điều gì đó không có thực trong thực tế (s: prajñapti, prajñapta, upacāra, vijñapti). (Từ điển Phật học Anh Hán Việt, C. Muller soạn - Thích Nhuận Châu Việt dịch). Từ này cũng được giải thích rồi.

(2). Lậu hoặc: Lậu có nghĩa là thấm ra, nhỏ ra, rỉ ra; Hoặc có nghĩa là mê mờ đối với chân lý. Lậu hoặc nói chung là những mê lầm, những phiền não phát sanh từ hai loại: 1- Những mê lầm thuộc về lý gọi chung là kiến hoặc như thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến v.v…; 2- Những mê lầm về sự gọi chung là tư hoặc là những phiền não ăn sâu gốc rễ từ vô thỉ như tham sân si… Những mê lầm đó như những thứ dơ bẩn, bất tịnh rỉ ra từ cơ thể. Thích nghĩa rồi.

(3). Trần cấu: Trần là bụi, cấu là dơ bẩn. Trần cấu là những ô nhiễm như bụi trần làm ô uế thân tâm.

 

Lược giải:

 

Tới đây, vì không thấy tánh của sắc, không thấy tánh 12 xứ, 18 giới cho đến không thấy tánh của tất cả pháp Phật. Chỗ không thấy không phải là không thấy gì, mà chỗ không thấy đưa đến tự nhiên trí, vô phân biệt trí, vô sanh trí, vô ngại trí. Trí đó không biết mà không có gì chẳng biết, nó tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, thông hóa tất cả pháp như hư không, nên nói không thể nghĩ bàn. Kinh bảo:

“Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì vượt quá luận bàn vậy. Chẳng thể xưng lường, vì vượt quá xưng lường vậy. Không hạn lượng, vì vượt quá hạn lượng vậy. Không gì sánh bằng, vì vượt quá so sánh hơn thua vậy. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì so sánh được.

Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng là chỉ có trên phương diện ngôn thuyết. Tất cả đều giống như hư không. Vì hư không chẳng thể so sánh, xưng tán được: Chẳng thể nghĩ bàn là chẳng thể nghĩ bàn như hư không; chẳng thể xưng lường là chẳng thể xưng lường như hư không; không hạn lượng là không có giới hạn như hư không; không gì sánh bằng là không có gì có thể so sánh với hư không”.

Toàn bộ 600 quyển Đại Bát Nhã tuyên thuyết về Trí này. Nó là Nhất thiết trí trí, là Bát Nhã Trí, trí rốt ráo viên mãn của chư Phật. Khi Giác ngộ trở thành Chánh Đẳng Vô Thượng Bồ đề thì chư Phật thành tựu trí này. Trí nầy cũng gọi là “Tri Kiến Phật”, là Phật, là Chơn như, Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên pháp tánh, Nhất thiết trí tánh. Vì cứu độ khắp tất cả hữu tình không ngừng nghỉ là việc lớn mà chư Phật xuất hiện ở đời. Kinh Pháp Hoa cũng nói: “Vì khai thị ngộ nhập Tri Kiến Phật này là một sự nhân duyên lớn mà chư Phật hiện ra đời”.

Tất cả chúng sanh đều có trí này, nhưng bị vọng tình nghiệt ngã, mê muội che mờ căn tánh nên không thể hiện được. Để chỉ bày cho chúng sanh được ngộ nhập “tri kiến” này nên chư Phật mới xuất hiện thế gian. Vì vậy, Bát Nhã Trí hay Tri Kiến Phật mới được coi là Ba la mật lớn, là Ba la mật thậm thâm, là Ba la mật chẳng thể nghĩ bàn, là Ba la mật chẳng thể xưng lường, là Ba la mật không có hạn lượng, là Ba la mật không gì sánh bằng. Ai tin cần tu học Bát nhã Ba la mật và tất cả các thiện pháp thì được trí này. Nên có thể chóng thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn, mau được quả vị Giác ngộ tối cao.

Phẩm “Biện Sự” tiếp theo sẽ giải thích thêm nhân duyên cũng như sự thành tựu trí này./.

 

---o0o---

 


 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2016(Xem: 22101)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
06/01/2016(Xem: 19418)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
23/07/2015(Xem: 15286)
Kinh Pháp Hoa. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
23/07/2015(Xem: 29937)
Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng (trọn bộ 8 quyển)
06/07/2015(Xem: 19643)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
12/04/2015(Xem: 15943)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
04/02/2015(Xem: 29931)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
07/01/2015(Xem: 16438)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
02/12/2014(Xem: 25604)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]