Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Phẩm “Đại Thừa” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

08/08/202009:16(Xem: 9278)
14. Phẩm “Đại Thừa” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
2.14. đại thừa -QT

 

PHẨM “ĐẠI THỪA”



Phần sau quyển 412, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phần sau phẩm “Ma Ha Tát”, quyển 49, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước







 

 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương Đại thừa?

Mãn Từ Tử nói: Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tuy nương tựa bố thí Ba la mật mà chẳng đắc bố thí, chẳng đắc kẻ thí, kẻ thọ, của thí và pháp bị ngăn.Tuy nương tựa tịnh giới Ba la mật mà chẳng đắc tịnh giới, chẳng đắc kẻ trì giới và kẻ phạm giới cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa an nhẫn Ba la mật mà chẳng đắc an nhẫn, chẳng đắc kẻ năng nhẫn và cảnh sở nhẫn cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa tinh tấn Ba la mật mà chẳng đắc tinh tấn, chẳng đắc kẻ tinh tấn hay kẻ lười nhác cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa tĩnh lự Ba la mật mà chẳng đắc tĩnh lự, chẳng đắc người tu định, kẻ tán loạn, chẳng đắc định cảnh cùng pháp bị ngăn.Tuy nương tựa Bát nhã Ba la mật mà chẳng đắc Bát Nhã, chẳng đắc kẻ có trí huệ, kẻ ngu si, chẳng đắc pháp thiện, bất thiện, vô ký, chẳng đắc pháp thế gian xuất thế gian, chẳng đắc pháp hữu lậu vô lậu và pháp bị ngăn.

Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình mà nươngvào Đại thừa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì khiển tu nên tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu ba giải thoát môn, tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. 

Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật quán sát Bồ Tát chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, Bồ đề và Tác đỏa đều bất khả đắc.  Sắc cho đến thức chỉ có giả danh thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Nhãn cho đến ý chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng cho đến pháp chỉ có giả danh, thi thiết lới nói, cũng bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Nói rộng cho đến Như Lai mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc. Chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Năng giác, sở giác chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, bất khả đắc. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, cũng bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, từ sơ phát tâm cho đến chứng Nhất thiết trí trí thường tu viên mãn thần thông, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ trì diệu pháp tương ưng với Đại thừa của chư Phật. Đã lắng nghe, thọ trì rồi, tư duy đúng lý, siêng năng tu học.

Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa.

Xá Lợi Tử! Bồ Tát này tuy nương vào Đại thừa, từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ diệu pháp, thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật, mà tâm không tưởng đến cõi Phật.

Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này an trụ địa vị Bất nhị, quán các hữu tình nên dùng thân nào để độ được liền hiện ra thân như vậy.

Xá Lợi Tử! Bồ Tát này cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, tùy sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa Chánh pháp Đại thừa. Bồ Tát này chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, vì trời người… quay xe Chánh pháp. Xe pháp như thế Thanh văn, Độc giác, trời, ma, phạm chẳng thể quay được.

Xá Lợi Tử! Bởi các Bồ Tát vì lợi vui khắp các hữu tình nên nương vào Đại thừa nên lại gọi Ma ha tát.

Xá Lợi Tử! Như vậy, vì lợi vui hữu tình nương Đại thừa Bồ Tát được khắp mười phương thế giới như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở giữa đại chúng vui mừng ngợi khen, nói lời như vầy: Phương ấy, trong thế giới ấy, có Bồ Tát tên ấy, vì lợi vui khắp tất cả hữu tình, nương Đại thừa, chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, vì trời người… quay xe Chánh pháp. Xe ấy thế gian các Thanh văn đều chẳng thể quay được. Như vậy lần lữa tiếng vang khắp mười phương, người trời nghe thấy đều rất vui mừng, nên nói lời này: Bồ Tát đây chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp độ chúng vô lượng.

 

Sơ giải:

 

Tất cả những điều mà Mãn Từ Tử giải thích cho Xá Lợi Tử đều rất dễ hiểu ngắn gọn, ai cũng có thể hiểu nên không cần giải thích thêm ở đây. Chỉ cần nhớ: Nếu Bồ Tát nương Đại thừa tu hành tất cả phương tiện thiện xảo, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng đừng thấy năng sở hay say đắm cảnh giới khả ái do mình tu hành đạt được, thì được xem là Bồ Tát lớn hay Bồ Tát Ma ha tát. Chư vị Bồ Tát này mau chứng Vô Thương Chánh Giác, quay xe diệu pháp cứu độ vô lượng chúng sanh, chư Phật trong mười phương thế giới như cát sông Hằng ở giữa đại chúng vui mừng khen ngợi.

Điều đáng lưu ý của phẩm này cũng như toàn bộ Đại Bát Nhã là “tất cả pháp là không, chỉ có giả danh, thi thiết lời nói, đều bất khả đắc, dù đó là pháp Phật hay Niết bàn”. Nên đừng bao giờ mong cầu chứng đắc hay hưởng phúc lợi do tu hành mà được. Nếu hiểu điểm này thì hiểu thế nào là tu Tánh Không Bát Nhã hay hiểu toàn bộ giáo lý Đại thừa! Tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc. Tu là vì lợi ích tất cả hữu tình, chứ không vì cá nhân mình làm mình hưởng. Như vậy, mới được xem thừa Đại thừa, tức đi xe Phật đi, đi đường Tổ phụ chư Phật đã đi, học pháp Tổ phụ chư Phật đã học, hành tất cả pháp chư Phật đã hành, chứng pháp chư Phật đã chứng, thuyết pháp chư Phật đã thuyết.

 

Đại Trí Độ Luận, Phẩm thứ 18, “Thừa Đại Thừa”, tập 3, quyển 46, thuyết rằng:

Bồ Tát từ nơi chúng sanh không mà vào được pháp không, nên khi hành bố thí chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật thí và cũng chẳng thấy có người thọ thí. Hành các Ba La Mật khác cũng đều như vậy cả. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, Bồ Tát dùng tâm chẳng có tạp niệm, ly các phiền não. Chẳng hướng về Nhị Thừa địa, chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí mà tu tứ niệm xứ,... dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp(1), biết rõ hết thảy các pháp ấy đều là rốt ráo thanh tịnh, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chỉ là danh tự, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ, đi từ quốc độ này đến quốc độ khác, đem hoa sen bảy báu để cúng dường, tôn kính chư Phật, và để nghe chư Phật thuyết pháp Đại Thừa. Bồ Tát thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ như vậy mà chẳng sanh tưởng về chúng sanh, chẳng sanh tưởng về quốc độ, lại an trú trong “pháp môn bất nhị”, vì chúng sanh mà thọ thân, tùy tâm chúng sanh mà phương tiện thuyết pháp nhằm hóa độ họ. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

 

--o0o--

 

Bồ Tát thừa Đại Thừa nguyện thành Phật, chuyển pháp luân nên được chư Phật khắp mười phương xưng danh và tán thán.

 

--o0o--

 

Đại Thừa là rốt ráo thanh tịnh, nên Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa dùng các thần thông để tự trang nghiêm. Trú trong thừa ấy, Bồ Tát Ma Ha Tát một thời biến hóa vô biên thân, đi khắp mười phương, cúng dường chư Phật, như vậy mãi cho đến khi được Nhất Thiết Chủng Trí vẫn chẳng hề ly Đại Thừa, chẳng hề ly chư Phật”.

 

Thích nghĩa cho phần lược giải của phẩm “Thừa Đại Thừa” này:

(1). Khi đọc chính văn mà thấy có câu này “Bốn niệm trụ... cho đến mười tám pháp Phật bất cộng”, xin hiểu là chúng tôi muốn rút gọn đoạn kinh chính văn của Đại Bát Nhã:

bốn niệm trụ, hoặc khuyên tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc khuyên tu hành Tam ma địa không, hoặc khuyên tu hành Tam ma địa vô tướng, vô nguyện; hoặc khuyên tu hành pháp môn giải thoát không, hoặc khuyên tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc khuyên tu hành tám giải thoát, hoặc khuyên tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc khuyên tu hành bố thí Ba la mật , hoặc khuyên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật; hoặc khuyên an trụ Thánh đế khổ, hoặc khuyên an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khuyên an trụ pháp không nội, hoặc khuyên an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khuyên an trụ chơn như, hoặc khuyên an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc khuyên tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, hoặc khuyên tu hành tất cả pháp môn Tam ma địa; hoặc khuyên tu hành bậc Cực hỷ, hoặc khuyên tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khuyên tu hành năm loại mắt, hoặc khuyên tu hành sáu phép thần thông; hoặc khuyên tu hành mười lực Như Lai, hoặc khuyên tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng v.v…

Cứ mỗi lần nhắc đến các pháp Phật như trên mà phải liệt kê đầy đủ như vậy và lặp đi lặp lại hàng trăm hàng ngàn lần trong toàn bản Đại Bát Nhã, là trùng tụng quá nhiều. Việc trùng tụng như vậy làm cho Kinh kéo dài và nặng nề thêm. Nên Kinh MHBNBLMĐ hay Đại Trí Độ Luận rút gọn là:Tu tứ niệm xứ(hay tứ niệm trụ),..., dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp”. Chúng tôi cũng theo lối rút gọn này trong thiên Tổng luận của chúng tôi, để tránh trùng tụng, dài dòng.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2016(Xem: 22101)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
06/01/2016(Xem: 19418)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
23/07/2015(Xem: 15286)
Kinh Pháp Hoa. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
23/07/2015(Xem: 29937)
Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng (trọn bộ 8 quyển)
06/07/2015(Xem: 19643)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
12/04/2015(Xem: 15943)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
04/02/2015(Xem: 29931)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
07/01/2015(Xem: 16438)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
02/12/2014(Xem: 25604)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]