Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sa Di Oai Nghi Giản Lược (pdf)

22/05/201819:04(Xem: 8856)
Sa Di Oai Nghi Giản Lược (pdf)
Sa Di oai nghi gian luoc_thich phuoc thai

                                              

  Thành Kính Đảnh Lễ:

 

*Thập phương chư Phật chứng minh.

* Nhị vị Tổ sư Liên Trì và Hoằng Tán chứng giám.

* Cố Đại lão Hòa thượng Thượng Hành Hạ Trụ.

* Cố Đại lão Hòa thượng Thượng Phước Hạ Huệ.

Ngưỡng bái vọng quý Ngài chứng minh và gia hộ

                  

  Thành kính Tri Ân:

 

* Thâm ân các đấng sanh thành giáo dưỡng.

* Thâm ân chư vị tôn túc Tăng Ni, các bậc Thầy và Thiện hữu tri thức

* Đại Đức Thích Phước Viên và Đại Đức Thích Phước Quảng đã tận tình giúp cho phần kỹ thuật trình bày và in ấn.

* Sư Cô Thích Phước An và phật tử Lệ Phượng đã chỉnh sửa bản in.

* Quý liên hữu trong hai đạo tràng: Phước Huệ và Quang Minh cùng quý ân nhân phật tử xa gần đã phát tâm hỷ cúng tịnh tài ấn tống.

 Xin tất cả nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa và chân thành của soạn giả.

 Nguyện đem công đức nầy hồi hướng cho quý ân nhân cùng pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.

 

 

  Lời Đầu Sách

 

Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu theo đạo Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, tất cả đều phải lấy giới luật làm đầu. Người tu hành không giữ giới, khác nào như ngựa không có dây cương. Ngựa không dây cương, đó là con ngựa hoang. Cũng thế, người tu hành, nếu không nghiêm trì giới luật, thì dễ buông lung tâm ý, sống bê tha dễ bị sa đọa. Bởi thế, việc học hỏi giới luật là điều tối cần thiết hệ trọng. Đối với các vị Sa di, nhất là những vị còn trẻ tuổi, nếu không học hỏi về những cách thức: "Khai, Giá, Trì, Phạm" thì không biết đâu để mà vâng giữ hành trì cho đúng pháp. Mười giới luật của Sa di là căn bản của giới Tỳ kheo và Bồ Tát. Muốn xây dựng một ngôi nhà có nhiều từng lầu, thì việc đầu tiên là phải xây nền móng cho thật kiên cố vững chắc. Có thế, thì ngôi nhà đó mới đứng vững được. Cũng thế, người xuất gia muốn tiến lên thọ Đại giới hay Cụ túc giới (Giới Tỳ kheo) thì phải lấy mười giới Sa di nầy làm căn bản. Thiếu mười giới nầy giống như xây nhà lầu, thiếu nền móng vững chắc vậy.

 

Giới luật là nền tảng của Định, Huệ. Người tu muốn được định huệ khai phát, thì phải hành trì giới luật nghiêm minh. Một đoàn thể Tăng già muốn phát triển lớn mạnh, tất nhiên, cũng phải lấy giới luật làm nền tảng xây dựng. Bởi thế trong Tạng Luật có câu: "Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ. Tỳ ni tạng diệt, Phật pháp diệc diệt". Câu nầy có nghĩa là: Tạng giới luật còn, thì Phật pháp còn. Tạng giới luật mất, thì Phật pháp cũng mất. Vì giới luật là mạng sống của Phật pháp. Thế nên bước đầu vào đạo, người xuất gia cần phải nỗ lực gia công học hỏi luật nghi cho rành rẽ trong vai trò bổn phận của một người đầu tròn áo vuông đã phát nguyện thế phát theo Thầy. Nhơn Giới mới sanh Định và nhơn Định mới phát Huệ. Đó là con đường Tam vô lậu học mà bất cứ người tu học Phật nào cũng phải đi qua.

 

Ngoài phần giới luật ra, người xuất gia còn phải học hỏi phần oai nghi. Sách có câu: "Có oai khá sợ, có nghi khá kính". Oai nghi tuy là hình thức bề ngoài, nhưng nó cũng rất quan trọng trong việc hành đạo. Tổ Quy Sơn có dạy: "Đường đường tăng tướng, diện mạo khả quan". Đó là nói lên cái tác phong phẩm hạnh đạo đức cao đẹp của người xuất gia cần phải có. Bốn oai nghi: đi, đứng, nằm ngồi, mỗi mỗi đều phải gìn giữ cẩn thận, không được thô tháo vụt chạt, mà mất đi tư cách phong thái của một ông thầy.

 

Nhằm giúp phần nào cho các vị thọ giới Sa di tập sự ngắn hạn hay thực thụ trọn đời, chúng tôi cố gắng biên soạn tập tài liệu nhỏ nầy. Khi biên soạn, phần nhiều chúng tôi dựa vào quyển Sa Di Luật Giải của Tổ Châu Hoằng do cố Hòa thượng thượng Hành hạ Trụ phiên dịch. Chúng tôi chia quyển sách nầy ra làm hai phần: Phần một, nói về Mười Giới Sa di và phần hai là phần Oai Nghi. Phần Oai Nghi nầy, về phần chánh văn (âm Hán Việt ) và dịch nghĩa văn xuôi, thì chúng tôi hoàn toàn y cứ vào quyển Sa Di Luật Giải nói trên. Tuy nhiên, chúng tôi có thêm vào phần văn vần làm theo thể thơ song thất lục bát khi đọc lên nó có vần điệu để cho người học dễ nhớ.  Ngoài ra, chúng tôi có thêm phần: Giải thích từ ngữ, Đại ý và Lược giảng. Vì mỗi Thiên oai nghi, có Thiên khá dài nên chúng tôi tạm phân ra từng bài ( nói đúng hơn là phân ra từng đoạn ) để cho người học dễ học và dễ nhớ. Riêng phần Lược giảng, chúng tôi cũng vẫn y cứ vào phần Chú giải của Tổ Hoằng Tán mà tóm lược làm ra. Vì xét thấy, phần Chú giải của Tổ Hoằng Tán có những đoạn văn quá dài, so với trình độ học hỏi của những vị Sa di trẻ tuổi thật khó có thể lãnh hội hết được. Do đó, mà chúng tôi không sao chép lại nguyên văn mà chỉ dựa vào đó rồi rút ra những ý chánh hoặc có đôi khi thêm vào một vài ý tưởng của chúng tôi cho phù hợp với căn cơ và hoàn cảnh xã hội hiện tại.  

 

Việc biên soạn nầy, mục đích chính của chúng tôi là nhắm thẳng vào các vị Sa di trẻ, tuy nhiên, người lớn tuổi học cũng không phải là vô ích. Trong khi biên soạn, dù chúng tôi có cố gắng đến đâu, cũng không sao tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. Kính mong các bậc cao minh, cụ nhãn, các bậc Thiện hữu trí thức phủ chính chỉ giáo cho.

 

Soạn giả xin hết lòng thành kính tri ân đa tạ.

 

Pháp Lạc Thất

Phật lịch 2560 Dương lịch 2016

Tỳ kheo Thích Phước Thái
Chân thành cảm tạ Thầy Phước Thái (tác giả) & Thầy Phước Viên đã gởi tặng
Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử tập sách này (T.Nguyên Tạng, 22-5-2018)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 12877)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 14686)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 52097)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 10316)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 11662)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 7289)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5311)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 6377)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 19040)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
08/01/2009(Xem: 12638)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567