Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Bi Hoa (Kinh PDF)

18/08/201408:39(Xem: 24937)
Kinh Bi Hoa (Kinh PDF)

Kinh Bi Hoa
Kinh Bi Hoa
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải,
Nguyễn Minh Hiến hiệu đính Hán văn


Tôi nghe như thế này:

Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan.

Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.

Bấy giờ lại có vị Đại Phạm thiên vương và vô số trăm ngàn thiên tử ở cõi trời ấy, cùng với vị Thiên vương cõi trời Tha hóa tự tại và số quyến thuộc là bốn trăm vạn cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Hoá Lạc Thiên vương với số quyến thuộc là ba trăm năm mươi vạn cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Đâu-suất Thiên vương với số quyến thuộc là ba trăm vạn cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Dạ-ma Thiên vương với số quyến thuộc là ba trăm năm mươi vạn cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Đao-lợi Thiên vương Thích-đề-hoàn-nhân với số quyến thuộc là bốn trăm vạn cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Tỳ-sa-môn Thiên vương với quyến thuộc mười vạn quỷ thần cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Tỳ-lâu-lặc Thiên vương với quyến thuộc một ngàn quỷ câu-biện-đồ cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Tỳ-lâu-la-xoa Thiên vương với quyến thuộc một ngàn con rồng cùng đến dự pháp hội.

Lại có vị Đề-đầu-lại-trá Thiên vương với quyến thuộc một ngàn càn-thát-bà cùng đến dự pháp hội.

Lại có các vị Nan-đà Long vương, Bà-nan-đà Long vương, mỗi vị đều dẫn theo một ngàn quyến thuộc cùng đến dự pháp hội.

Hết thảy chúng hội như trên đều là những vị đã phát tâm hướng về Đại thừa, đều đã thực hành sáu pháp ba-la-mật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúng mà thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành, được ánh sáng trí huệ, thấu hiểu Bốn thánh đế, lại vì muốn giúp cho các vị Bồ Tát trong đời vị lai được nhập vào Tam-muội. Nhập Tam-muội rồi sẽ vượt hơn cảnh giới của hàng Thanh văn và Bích-chi Phật, đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề không còn thối chuyển.

Lúc bấy giờ, có các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Vô Si Kiến, Bồ Tát Thủy Thiên, Bồ Tát Sư Tử Ý, Bồ Tát Nhật Quang... những vị Bồ Tát đứng đầu như vậy có đến mười ngàn vị, cùng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về phương đông nam, hết lòng hoan hỷ, cung kính chiêm ngưỡng rồi niệm rằng:

“Nam-mô Liên Hoa Tôn Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà! Nam-mô Liên Hoa Tôn, Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà! Đức Thế Tôn thật ít có thay! Ngài thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chưa bao lâu mà đã có thể thị hiện vô số các phép thần thông biến hóa, khiến cho vô số chúng sinh được gieo trồng căn lành, đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề không còn thối chuyển.”

Bấy giờ, trong chúng hội có vị Đại Bồ Tát tên là Bảo Nhật Quang Minh, từ chỗ ngồi đứng dậy trần vai áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về đức Phật thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Vô Si Kiến, Bồ Tát Thủy Thiên, Bồ Tát Sư Tử Ý, Bồ Tát Nhật Quang... những vị Bồ Tát đứng đầu như vậy có đến mười ngàn vị, cùng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về phương đông nam, hết lòng hoan hỷ, cung kính chiêm ngưỡng rồi niệm rằng: ‘Nam-mô Liên Hoa Tôn Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà! Nam-mô Liên Hoa Tôn, Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà! Đức Thế Tôn thật ít có thay! Ngài thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chưa bao lâu mà đã có thể thị hiện vô số các phép thần thông biến hóa, khiến cho vô số chúng sinh được gieo trồng căn lành.’

“Bạch Thế Tôn! Đức Phật Liên Hoa Tôn ở cách nơi này gần hay xa? Ngài thành đạo đến nay đã bao lâu? Cõi nước của ngài tên gọi là gì? Lấy gì để trang nghiêm? Đức Phật Liên Hoa Tôn vì sao lại thị hiện đủ các phép biến hóa? Phải chăng khi chư Phật thị hiện vô số các phép thần thông biến hóa trong mười phương thế giới, có các Bồ Tát nhìn thấy được, còn riêng con thì không?”

Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Câu hỏi của ông thật là quý giá như trân bảo, thật là hiền thiện, thật là khéo biện luận, thật là khéo thưa hỏi! Nay ông có thể thưa hỏi Như Lai về nghĩa nhiệm mầu như vậy, vì muốn giáo hóa cho vô số chúng sinh được gieo trồng căn lành, muốn được hiển bày cảnh giới của đức Phật Liên Hoa Tôn với đủ mọi sự trang nghiêm. Thiện nam tử! Nay ta sẽ thuyết giảng. Ông hãy lắng nghe, lắng nghe. Hãy khéo suy ngẫm! Hãy khéo nhận lãnh!”

Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh khi ấy hết lòng hoan hỷ lắng nghe lời dạy.

Đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh rằng: “Thiện nam tử! Về hướng đông nam, cách đây một ức trăm ngàn cõi Phật, có cõi Phật tên là Liên Hoa với đủ mọi sự trang nghiêm tốt đẹp, có các loại hương thơm bay khắp nơi, các loài cây quý mọc lên tô điểm cho đủ loại núi quý, mặt đất có màu xanh biếc như lưu ly. Cõi Phật ấy có vô số các vị Bồ Tát trong khắp cõi nước, có tiếng hay lạ thuyết giảng pháp lành vang vọng khắp nơi. Mặt đất mềm mại êm ái như loại vải của chư thiên cõi trời, khi đi bàn chân lún sâu vào đất đến bốn tấc, lúc nhấc chân lên thì mặt đất tự nhiên khép lại và sinh ra đủ các loại hoa sen.

“Cây cối bằng bảy món báu, cao đến bảy do-tuần, trên các cành cây tự nhiên có áo cà-sa cõi trời treo lơ lửng. Nơi cõi Phật ấy thường được nghe tiếng âm nhạc của chư thiên. Trong tiếng chim hót thường vang ra những âm thanh diễn thuyết nhiệm mầu về các pháp căn, lực và giác ý. Những cành lá trên cây chạm vào nhau tạo thành âm thanh hay lạ, hơn cả các loại âm nhạc ở hai cõi trời, người. Hương thơm từ mỗi rễ cây tỏa ra đều thơm hơn cả hương của chư thiên, tỏa khắp quanh đó đến hơn một ngàn do-tuần. Trên cây có những chuỗi ngọc anh lạc của chư thiên treo lơ lửng. Lại có lầu bằng bảy báu cất lên cao đến hơn năm trăm do-tuần, bề rộng ở giữa đến cả trăm do-tuần. Những lan can bao quanh lầu đều được làm bằng bảy món báu. Bốn phía lầu đều có hồ nước lớn, dài tám mươi do-tuần, rộng năm mươi do-tuần. Quanh những hồ nước ấy đều có các bậc thềm làm đường đi lên, chỉ thuần bằng bảy báu. Trong hồ nước lại có bốn loại hoa sen là hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma và hoa phân-đà-lợi. Mỗi bông hoa có đường kính rộng đến một do-tuần.

“Vào lúc đầu hôm có các vị Bồ Tát sinh ra từ giữa đài hoa, ngồi kết già nơi ấy mà tận hưởng niềm vui giải thoát. Vừa quá nửa đêm, có gió từ bốn phương thổi đến, êm dịu và thơm tho, chạm nhẹ vào thân các vị Bồ Tát. Gió ấy thổi khắp mọi nơi, có thể làm cho những đóa hoa còn đang khép kín phải nở rộ ra. Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát ra khỏi Tam-muội, lại tiếp tục hưởng niềm vui giải thoát. Các ngài rời khỏi đài sen để lên lầu cao, ngồi nơi tòa bằng bảy báu mà lắng nghe chánh pháp nhiệm mầu.

“Bốn phía vây quanh nơi ấy đều có những quả núi bằng loại vàng ròng sắc đỏ tía quý nhất, cao đến hai mươi do-tuần, ngang dọc bằng nhau đến ba do-tuần, trên núi có vô số các loại trân bảo, ngọc lưu ly màu xanh biếc, màu đỏ, ánh sáng lấp ánh xen lẫn nhau.

“Bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tôn dùng ánh hào quang sáng rực hòa cùng ánh sáng của các loại trân bảo chiếu rõ cõi Phật ấy. Ánh sáng nơi cõi Phật ấy là mầu nhiệm, tinh tế bậc nhất nên không còn thấy mặt trời, mặt trăng, cũng không phân biệt được đêm ngày, chỉ xem những cánh hoa khép lại và loài chim đậu lên cành nghỉ để biết ngày giờ. Trên núi báu ấy lại có đài cao xinh đẹp bằng ngọc lưu ly màu xanh biếc, cao đến sáu mươi do-tuần, hai bề ngang dọc bằng nhau là hai mươi do-tuần. Bốn phía quanh đài đều có lan can làm bằng bảy báu. Ngay giữa đài có những giường quý cũng làm bằng bảy báu. Mỗi giường đều có một vị Bồ Tát Nhất sinh, ngồi trên giường lắng nghe và thọ nhận chánh pháp.

“Thiện nam tử! Cõi Phật ấy có cây Bồ-đề tên gọi là Nhân-đà-la, cao đến ba ngàn do-tuần, đường kính thân cây đến năm trăm do-tuần, cành lá rộng ra đến một ngàn do-tuần. Bên dưới cây ấy có hoa sen, cuống hoa bằng ngọc lưu ly cao năm trăm do-tuần. Mỗi một đóa hoa đều có một triệu cái lá bằng vàng cao đến năm do-tuần, đài hoa bằng mã não, tua hoa bằng bảy món báu, cao đến mười do-tuần, hai bề ngang dọc đều rộng đến bảy do-tuần.

“Bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tôn ngồi trên đóa hoa ấy, chỉ qua một đêm mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bao quanh đóa hoa dưới cội Bồ-đề ấy lại có đủ các loại hoa sen khác, mỗi đóa hoa sen đều có các vị Bồ Tát ngồi trên đó mà nhìn thấy đức Phật Liên Hoa Tôn hiện đủ các phép thần thông biến hóa.”

Khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết dạy việc này xong, Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh liền bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đức Phật Liên Hoa Tôn dùng tướng mạo gì để thực hiện các phép biến hóa? Xin đức Thế Tôn thuyết dạy.”

Đức Phật bảo Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh: “Thiện nam tử! Đức Phật Liên Hoa Tôn chỉ qua một đêm đã thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đức Phật ấy vừa quá nửa đêm thì thị hiện các phép thần túc biến hóa, hiện thân cao đến tận cõi trời Phạm thiên, từ tướng nhục kế trên đỉnh đầu phóng ra sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn đạo hào quang, chiếu về phương trên đến vô số cõi Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ.

“Bấy giờ, các vị Bồ Tát ở phương trên không còn nhìn thấy mọi hình sắc ở phương dưới, từ các núi Thiết-vi cho đến các núi nhỏ, chỉ còn nhìn thấy các thế giới được chiếu sáng trong ánh hào quang của Phật. Trong các thế giới ấy có các vị Bồ Tát đều được thọ ký, hoặc được các phép Đà-la-ni, Tam-muội Nhẫn nhục, hoặc được tiến lên địa vị Nhất sinh bổ xứ. Các vị Bồ Tát này đều tự thân có hào quang, nhưng do hào quang của Phật nên không thể hiển lộ. Toàn thể chúng hội như vậy đều chắp tay hướng về đức Phật Liên Hoa Tôn mà chiêm ngưỡng tôn nhan. Khi ấy, các vị chỉ còn nhìn thấy ba mươi hai tướng tốt của Phật, chuỗi ngọc anh lạc trên thân và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân Phật.

“Các vị Bồ Tát nhìn thấy đức Phật Liên Hoa Tôn cùng với cõi thế giới đủ mọi vẻ trang nghiêm liền sinh lòng vui mừng. Bấy giờ, trong vô số cõi thế giới của chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ, các vị Đại Bồ Tát được nhìn thấy hào quang biến hóa của đức Phật Liên Hoa Tôn cùng với cõi thế giới ấy rồi, mỗi vị đều tự lìa bỏ cõi nước của mình, tự dùng phép thần túc mà cùng nhau đến hội nơi chỗ đức Phật ấy, đi quanh lễ bái và cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen.

“Thiện nam tử! Khi ấy đức Phật Liên Hoa Tôn nhìn thấy các vị Bồ Tát liền hiện tướng lưỡi rộng dài phủ khắp các cõi Tứ thiên hạ với hết thảy chúng sinh đang đi, đứng, ngồi... hoặc có các vị Bồ Tát đang nhập thiền định, vừa ra khỏi định liền đứng dậy giữa đại chúng, đi quanh lễ bái, cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen đức Phật Liên Hoa Tôn.

“Thiện nam tử! Đức Phật ấy sau khi hiện tướng lưỡi rộng dài như vậy rồi, liền thâu lại như bình thường.

“Thiện nam tử! Sau đó đức Phật Liên Hoa Tôn lại phóng ra hào quang từ các lỗ chân lông trên thân mình. Mỗi một lỗ chân lông đều phát ra sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn đạo hào quang rực sáng. Ánh sáng mầu nhiệm ấy chiếu khắp mười phương, mỗi một phương đều soi thấu vô số cõi Phật thế giới nhiều như số hạt bụi nhỏ. Trong mỗi thế giới ấy đều có các vị Bồ Tát được thọ ký, hoặc được phép Đà-la-ni, Tam-muội Nhẫn nhục, hoặc được tiến lên địa vị Nhất sinh bổ xứ. Các vị Bồ Tát ấy nhìn thấy hào quang của Phật rồi, mỗi vị đều từ bỏ cõi thế giới của mình, nương theo sức thần thông của Phật mà cùng đến hội nơi cõi Phật Liên Hoa Tôn, cùng nhau đi quanh lễ bái và cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen.

“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ, đức Phật ấy sau khi đã hiện phép biến hóa như vậy rồi, liền thâu nhiếp thần lực, rồi vì các vị Bồ Tát và đại chúng mà giảng thuyết chánh pháp, chuyển bánh xe chánh pháp không còn thối chuyển, vì muốn cho vô số chúng sinh được lợi ích lớn, được niềm vui lớn. Ngài thương xót tất cả thế gian nên muốn vì hàng trời, người mà ban cho đầy đủ giáo pháp Đại thừa cao trổi nhất!”




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2016(Xem: 16770)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
06/01/2016(Xem: 16794)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
23/07/2015(Xem: 14115)
Kinh Pháp Hoa. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
23/07/2015(Xem: 27569)
Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng (trọn bộ 8 quyển)
06/07/2015(Xem: 18774)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
12/04/2015(Xem: 14673)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
04/02/2015(Xem: 22375)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
07/01/2015(Xem: 15439)
Để trả lời nghi vấn của một số độc gỉa TVHS về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm , GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự.
02/12/2014(Xem: 24333)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567