Lý Tưởng của người Bồ-tát

24/03/202015:02(Xem: 6137)
Lý Tưởng của người Bồ-tát

bo tat quan am

Lý Tưởng của người Bồ-tát

The Bodhisattva Ideal

***

Urgyen Sangharakshita

Hoang Phong chuyển ngữ

 

 

Lời giới thiệu của người chuyển ngữ:

 

            Trước khi phân tích và đi sâu vào chủ đề "Lý tưởng của người bồ-tát", thiết nghĩ chúng ta cũng nên tìm hiểu xem Phật giáo là gì, có phải là một tôn giáo hay không? Chữ "tôn giáo" (religion) là một thuật ngữ của người Tây phương, xoay quanh ý niệm về một Vị Trời Sáng Tạo ra thế giới và cả con người. Do đó con người phải chấp thủ quy luật do vị Sáng Tạo an bài, và điều đó cũng có nghĩa là nếu muốn được "cứu rỗi" thì phải chấp hành các phán lệnh của Vị ấy.  Dhamma - tiếng Phạn là Dharma - hay Đạo Pháp do Đức Phật đưa ra hoàn toàn ngược hẳn với ý niệm đó. Dhamma là cách hướng vào bên trong con người của mình để tìm hiểu các nguyên nhân quá khứ và cả trong hiện tại đưa đến sự hiện hữu của chúng ta ngay trong lúc này, và chính sự hiện hữu đó cũng luôn ở trong tình trạng chuyển động và đổi thay, bằng cách liên kết và tương tác với vô số các điều kiện khác trong thiên nhiên và vũ trụ. Tu tập Phật giáo là tìm hiểu các nguyên nhân nào đã tạo ra sự hiện hữu trói buộc đó của mình để hóa giải chúng, giúp mình thoát ra khỏi sự chuyển động mang tính cách tương tác và lệ thuộc đó của chính mình. 

 

            Như vậy thì Dhamma của Đức Phật không phải là một "tôn giáo" theo cách hiểu của người Tây phương. Thế nhưng dưới một khía cạnh nào đó thì Phật giáo cũng rõ ràng là một tôn giáo, cũng có chùa chiền, lễ lạc, tượng ảnh, bông hoa, cờ xí. Ngoài các hình thức sinh hoạt phụ thuộc và phiến diện đó, người tu hành hoặc bất cứ ai bước theo con đường do Đức Phật vạch ra cũng cần phải có "đức tin" bên trong nội tâm mình, thế nhưng "đức tin" đó là một sự "tin tưởng", một sự "vững tin", căn cứ vào các chứng nghiệm về hiện thực, dựa vào các cảm nhận thực nghiệm, hợp lý, sắc bén và sâu xa của lý trí. Tất cả các thứ ấy, từ chùa chiền, lễ lạc đến "đức tin" là các phương tiện "thiện xảo" giúp chúng ta đến gần với Dhamma của Đức Phật, một "Giáo Lý" hình thành trong một khung cảnh yên lặng của một khu rừng hoang vắng,

 

            Quyển sách Lý tưởng của nguời bồ-tát - The Bodhisattva Ideal - của nhà sư Urgyen Sangharakshita sẽ đưa chúng ta vào một thế giới có phần "nhộn nhịp" hơn so với khu rừng "yên lặng" đó. Thế nhưng cái thế giới đầy màu sắc đó cũng vô cùng sâu sắc và phong phú. Cái thế giới mở rộng đó đã khoác lên thêm cho Dhamma của Đức Phật một chiếc áo cà-sa mới là Mahayana (Đại thừa). Chiếc áo này thật rộng thế nhưng cũng rất đa dạng và phức tạp. Sự đa dạng và phức tạp đó đôi khi khiến chúng ta hoang mang, không biết là mình phải bước theo con đường nào. Đức Đạt-lai Lạt-ma thường cảnh giác chúng ta là nếu muốn bước theo con đường Đại Thừa một cách đúng đắn, thì trước hết phải thấu triệt Phật giáo Tiểu thừa, đại diện ngày nay là Phật giáo Theravada. Nhà sư Urgyen Sangharakshita qua quyển sách này sẽ góp phần giúp chúng ta tìm hiểu cốt lõi của Đại thừa là gì hầu giúp chúng ta bước theo con đường đó một cách nghiêm chỉnh và đúng đắn hơn.

 

            Urgyen Sangharakshita (1925-2018) là một nhà sư người Anh, xuất gia năm 18 tuổi và tu tập theo Phật giáo Theravada, thế nhưng sau 20 năm lưu ngụ tại Ấn-độ và các nước khác như Tích Lan và Singapore, và từng được dịp học hỏi với nhiều nhà sư Tây Tạng nổi tiếng thì ông đã bước theo con đường Đại thừa. Nhiều người xem ông là một trong số các nhà sư uyên bác nhất của thế kỷ XX.

 

            Quyển sách của ông nêu lên ba chủ đề lớn: trước hết là sự hình thành của "bồ-đề tâm" (bodhicitta) hay "Tinh thần giác ngộ" của người bồ-tát, và đó cũng là điểm "then chốt" nhất của toàn thể Đại thừa; sau đó là phần bình giải về tập luận nổi tiếng của nhà sư người Ấn thế kỷ thứ VIII là Santideva (Tịch Thiên), tập luận mang tựa là Bodhicaryavatara ("Con đường đưa đến Giác Ngộ", kinh sách Hán ngữ gọi là "Bồ-đề hành luận"); và sau cùng trong phần thứ ba, nhà sư Sangharakshita sẽ giải thích thế nào là lý tưởng của người bồ-tát và đồng hóa lý tưởng đó với điểm tiến hóa tột đỉnh của tri thức, trên phương diện cá nhân cũng như toàn thể nhân loại.  

 

            Quyển sách của ông được nhà xuất bản Windhorse ấn hành lần đầu năm 1999, sau đó đã được tái bản nhiều lần, ấn bản mới nhất là năm 2019 với hơn 700 trang. Độc giả cũng có thể xem bản dịch tiếng Pháp của quyển sách này trên trang mạng của Trung tâm Phật giáo Triratna Paris (Centre bouddhiste Triratna de Paris). Sách gồm tám chương, mỗi chương gồm nhiều phân đoạn. Mỗi phân đoạn nêu lên một chủ đề với đầy đủ ý nghĩa của nó, vì thế trong bản chuyển ngữ tiếng Việt dưới đây xin đề nghị gọi các phân đoạn này là các "bài giảng", gồm tất cả 56 bài đánh số theo thứ tự để dễ tìm khi cần xem lại. Dưới đây là tám chương trong sách và số bài trong mỗi chương:

 

                 I.     Lý tưởng của người bồ-tát - Nguồn gốc và sự hình thành (9 bài)

                II.    Sự bừng tỉnh của con tim giác-ngộ (6 bài)

               III.    Lời nguyện của người bồ-tát (6 bài)

              IV.     Lòng vị tha và chủ trương cá nhân trong cuộc sống tâm linh (8 bài)

               V.     Nam tính và nữ tính trong cuộc sống tâm linh (7 bài)

              VI.     Trước ngưỡng cửa của sự giác ngộ (7 bài)

             VII.    Các cấp bậc của người bồ-tát (6 bài)

            VIII.    Đức Phật và người bồ-tát - vĩnh cửu và thời gian (7 bài)

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2025(Xem: 560)
Dường như đều đặn gần 10 năm nay, từ khi học Đạo và nghe nhiều pháp thoại trong các bộ kinh Lăng Nghiêm và Diệu Pháp Liên Hoa và thường tụng niệm chú Đại Bi cũng như các câu chú đại linh mật thông dụng nhứt và nhắn gọn nhứt của Quán Thế Âm theo Mật Tông Tây Tạng là OM MANI PADME HÙM! (Án Ma Ni Bát Di Hồng!) của Phật Bà Tàrà, ứng Thân của Quán Thế Âm: (OM TÀRE TUTTÀRE TURE SVÀHÀ!) con thường nhủ rằng “trong tâm lý học sâu, con người dù trí tuệ đến đâu vẫn có khoảng trống của khổ đau và bất an. Quán Âm là biểu tượng của sự lắng nghe tuyệt đối, của năng lượng dịu lành giúp tâm người được an định.
27/09/2025(Xem: 420)
Trong kinh A Na Di, một nhóm Tỳ kheo chưa thấy rõ con đường, lòng còn phân vân trong pháp hành của mình, dù được Thế tôn gợi ý, nhắc nhở nhưng vẫn còn ngơ ngác, lặng thinh, thiếu hẳn lập trường. Chỉ có một vị đại diện muốn được lắng nghe. Thế tôn liền nói vắn tắt như sau: “Này các Tỳ kheo, những hạng chỉ nói lời hư vọng, không hiển thị sự chân thật, thiếu sự phân biệt, không rõ được hành vi, sự lưu bố và tuần tự thuyết pháp; khi muốn đoạn trừ sự xấu xa trong tâm ý người khác thì chẳng làm được, lúc bị cật vấn thì trở nên đuối lý. Thế tôn gọi hạng này không xứng lập trong hàng ngũ giáo pháp của ta, đó là chúng phi pháp.” Nói xong, Thế tôn bèn lui vào am thất, nghỉ ngơi.
23/09/2025(Xem: 495)
Có bốn hạnh tướng đẹp dành cho các sơ học Bồ tát. Đó là hạnh “Tự Chánh”, hạnh “Chánh Tha”, hạnh “Tùy Vấn” và hạch hỏi các “Sự Duyên” (Phẩm tứ tướng Niết Bàn) …… Có Tỳ kheo bảo, thà ôm đóng lửa mà chết, chứ không dám đứng trước Như Lai mà nói 12 bộ kinh. Chết như vậy thì tâm thể vẹn nguyên, tuyệt không để ma tâm quấy nhiễu, chỉ sinh oán kết, cột thêm dây.
21/09/2025(Xem: 507)
Khi Phật giáo truyền đến phương Bắc, Trung Hoa là điểm quan trọng và chủ yếu của nhánh này. Sự phát triển của Phật giáo làm ảnh hưởng đến sự độc tôn của Nho – Lão, vì thế xảy ra những mâu thuẫn và xung đột không thể tránh được. Các pháp sư phải linh hoạt quyền biến phương tiện để hoằng hóa. Măc khác tín ngưỡng địa phương, văn hóa, nghệ thuật bản địa lại tác động đến Phật giáo. Các pháp sư phải linh hoạt chấp nhận sự giao thoa và cũng lợi dụng các yếu tố đó để dẫn dụ. Dần dà Phật giáo Bắc truyền mang màu sắc Trung Hoa rất đặc thù và khác biệt với dòng Nam truyền. Hai hình tượng rất đặc biệt trong Phật giáo Bắc truyền ấy chính là Quán Thế Âm Bồ Tát và Phật Di Lặc. Từ đây truyền rộng sang Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn…Mấy ngàn năm nay, hình tượng hai ngài phổ biến sâu rộng trong quần chúng, in sâu vào tâm thức mọi người…
22/10/2024(Xem: 2484)
Xuất xứ. Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm là tuyển tập 500 Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Mỗi danh hiệu tán dương một bản nguyện, hạnh tu, công đức, pháp môn, ứng thân, phương tiện, lời dạy, cảm ứng, xưng tán, hoặc oai lực của Bồ Tát, viết thành một câu khá dài. Hơn một nửa danh hiệu trích dẫn từ Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, còn lại dẫn từ nhiều Kinh khác. Do dẫn nhiều bản Kinh theo thứ tự trước sau nên có những câu tương tự, trong đó 2 câu “Thiên nhãn Chiếu kiến” và “Thiên thủ Hộ trì” lập lại 2 lần (câu 76-77).
20/10/2024(Xem: 2397)
Phải chăng trong thời đại công nghệ và tri thức phát triển? Niềm tin mạnh mẽ vào Bồ tát Quán Thế Âm Vẫn đặc biệt giữ được một giá trị tinh thần Nhưng đòi hỏi thêm hơn một cái nhìn thực tế và sâu sắc! Hãy luôn kiên nhẫn và lòng từ bi, dù cuộc sống có phức tạp hay thách thức !
02/09/2024(Xem: 7748)
Mời người về đây tu viện Quảng Đức Xứ Úc hiền hòa Thầy đã dựng xây Mái ấm tâm linh, chở che người con xa xứ Bao bàn tay Phật tử cùng chung xây dựng Quảng Đức, trái tim người bất diệt!
02/09/2024(Xem: 2578)
Có một câu danh ngôn nổi tiếng của John Milton trong tác phẩm *Paradise Lost* (Thiên Đường Đã Mất) nói về khái niệm thiên đường và địa ngục trong tâm trí con người: “The mind is its own place, and in itself can make a heaven of hell, a hell of heaven."* Tạm dịch:”Tâm trí là nơi của chính nó, và tự nó có thể biến thiên đường thành địa ngục, địa ngục thành thiên đường."* Câu này nhấn mạnh rằng chính tâm trí con người quyết định việc chúng ta sống trong hạnh phúc hay khổ đau, thiên đường hay địa ngục.
31/07/2024(Xem: 7019)
Quán Âm Bồ Tát Nhĩ căn viên thông Đại từ đại bi Diệu âm tự tánh
24/07/2024(Xem: 1641)
Nam Mô Bồ Tát Quan Âm Chứng tri tứ chúng đồng tâm kính thành An vị Bồ Tát duyên lành Hương hoa bánh trái tịnh thanh cúng dường Kính mong Bồ tát tưởng thương Độ cho nhân loại bớt vương khổ nàn Lời kinh khấn nguyện vang vang Mười hai đại nguyện Quan Âm độ đời