Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

30. Thủy Nguyệt Quán Âm

06/04/201114:36(Xem: 3727)
30. Thủy Nguyệt Quán Âm

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

30. THỦY NGUYỆT QUÁN ÂM

Bồ Tát Quán Âm đến Cô Tô thì gặp ngay lúc thành phố này đang bị nạn đao binh hoành hành. Dân chúng thành Cô Tô bị lính người Kim tàn sát chết cả hơn mười vạn người, oan hồn vất vưởng các nơi đồng hoang mông quạnh thật là khổ sở. Bồ Tát thấy thế khởi lòng lân mẫn, phát tâm từ bi sâu rộng, nên thi thố pháp lực để cứu vớt những oan hồn ấy thoát khỏi mọi khổ ách.

Bồ Tát hóa thành một ni cô ở tuổi trung niên, tay cầm tịnh bình dương liễu, đến nơi có nhiều oan hồn tụ tập mà chồng đá xây một cái đài cao vài trượng, lên đài ngồi kết già phu và tụng những bộ kinh phá địa ngục chướng như “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” hoặc là “Đại Bi Chú Kinh”, mỗi lần một ngàn biến. Xong một ngàn biến thì Ngài lấy nhánh dương liễu chấm vài giọt nước cam lồ trong tịnh bình, nhìn lên không trung mà rắc khắp một vòng, sau đó cắm lại nhánh dương liễu vào tịnh bình đâu đó cẩn thận rồi mới tụng kinh tiếp.

Bồ Tát Quán Âm lập đài tụng kinh để siêu độ oan hồn của những người đã bị giết hại trong chiến tranh làm cho những người đương thời rất ngạc nhiên. Họ không hiểu ý nghĩa hành động này, mà chỉ thấy một người thiếu phụ xinh đẹp đến xây một cái đài rồi lên đó ngồi tụng kinh, họ cho là kỳ quái nên ùn ùn kéo nhau đến nhìn rồi nhao nhao bàn tán với nhau, mỗi người một ý, không ai đồng ý với ai. Người thiếu phụ nói để chấm dứt sự nghi ngờ của mọi người:

– Ở đây người vô tội đã bất hạnh chết dưới tay người Kim rất nhiều, số người chết oan như thế lên tới cả chục ngàn sinh linh, thật là thê thảm. Những oan hồn ấy không ở trong ba giới cũng không vào sáu nẻo, mà cứ lưu lạc bơ vơ vất vưởng ở bên ngoài. Hôm nay bần ni có nhân duyên đến chỗ này, vâng theo tôn chỉ từ bi của đức Phật làm sao cho họ được siêu độ, vì thế nên mới xây đài phát nguyện tụng kinh trong 49 ngày, dùng nhành dương liễu rảy nước cam lồ khắp nơi, để họ thoát mọi khổ ách và vãng sinh nước Cực Lạc. Mọi người không nên nghi ngờ, bần ni không hóa duyên cũng chẳng khất thực, chỉ muốn hoàn thành bổn nguyện của mình, thế thôi.

Mọi người nghe vậy thì lục tục kéo nhau bỏ về.

Thấm thoát ngày thứ 49 đã đến. Chiều hôm ấy là ngày cuối, hết hạn tụng kinh của người thiếu phụ. Mọi người đúng kỳ hạn lại kéo nhau đến, yên lặng nghe Bồ Tát thuyết pháp. Bồ Tát Quán Âm nói:

– Các vị hãy nghe tôi nói, tôi tụng kinh này tên là “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” có thể phá các chướng trong địa ngục, siêu độ tất cả mọi khổ cách trong thế giới u minh, tụng xong một tạng thì tất cả mọi tai họa đều được tiêu trừ hết.

Tiếp theo Bồ Tát đưa tịnh bình lên rồi lại nói:

– Nước trong bình này gọi là cam lồ công đức thủy, rảy khắp mười phương chỉ cần một giọt thôi là đã có thể giúp người vãng sinh Cực Lạc quốc. Coi như bần ni có nhân duyên với chỗ này nên không tính trước mà lại đến. Bần ni đã làm xong trách nhiệm của mình, tức là lập cách siêu độ giải trừ khổ ách cho hàng vạn sinh linh chết oan. Bây giờ công đức đã viên mãn, bần ni cũng phải đi nơi khác.

Mọi người nghe nói vị ni sư này đã làm công đức như thế chỉ vì để siêu độ cho người bị nạn mà không đòi gì để đền bù nên cảm kích vô cùng. Trong đám những người ấy có một vị đột nhiên đại ngộ, nghĩ rằng việc làm và lời nói của vị ni sư này không bình phàm chút nào, chắc chắn người thiếu phụ này phải là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân. Nếu thỉnh được Bồ Tát hiển hiện bảo tướng thì một đời hạnh phúc biết bao nhiêu!

Nghĩ thế rồi, ông chạy lên phía trước nói với người thiếu phụ rằng:

– Nghe nói rằng Bồ Tát Quán Âm vân du trong nhân gian, hiện bảo tướng ở bất kỳ chỗ nào, không biết chúng tôi có thể có may mắn thấy được Bồ Tát một lần không?

Người thiếu phụ đáp:

– Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm. Nếu thành tâm muốn gặp Bồ Tát thì trong tâm đã có Bồ Tát, nghĩa là đã là thấy Bồ Tát rồi!

Sau đó, thiếu phụ chỉ về hướng bờ sông nói:

– Không phải Bồ Tát đấy sao?

Mọi người nhìn theo hướng ngón tay của thiếu phụ, quả nhiên nhìn thấy trên mặt nước có bóng mặt trăng sáng cực kỳ, và họ thấy Bồ Tát chầm chậm bước vào trong bóng trăng ấy. Lúc ấy bóng trăng lung linh trên mặt nước gợn sóng, bảo tướng trang nghiêm và từ bi của Bồ Tát ảnh hiện giữa trời và nước, ánh sáng chiếu khắp tứ phía.

Mọi người thấy thế bèn ùn ùn quỳ xuống lễ. Lễ xong đứng dậy, trên đài đá không còn bóng người thiếu phụ nữa. Người đã lên tiếng vừa rồi thấy điều mình nghi là đúng nên rất sung sướng, những người ở tại chỗ cũng chợt hiểu ra rằng người thiếu phụ chính là Bồ Tát Quán Âm hóa thân. Thế là thiện nam tín nữ trong thành Cô Tô ai nấy đều đồng lòng quyên góp tiền bạc để xây một ngôi Quán Âm miếu ngay tại chỗ mà Bồ Tát xây đài tụng kinh và tạc tượng Bồ Tát Quán Âm tụng kinh, rảy nước cam lồ.

Bức tượng này được dân gian đặt tên là “Quán Âm rảy nước” (Sái Thủy Quán Âm) hay là “giọt nước Quán Âm” (Trích Thủy Quán Âm).

Trong số những người đã nhìn thấy Bồ Tát hiện thân, có nhà họa sĩ Khưu Tử Thanh, là một họa sĩ có nét vẽ tuyệt vời. Người này tin Phật một cách thuần thành, có đầy đủ huệ nhãn, muốn cho người đời đồng chiêm bái bảo tướng Bồ Tát và đồng thấm nhuần pháp vũ, bèn vẽ lại bảo tướng Bồ Tát thị hiện trong bóng trăng trên nước. Trong bức họa này, ánh trăng lồng trong ánh nước, bảo tướng trang nghiêm của Đại sĩ lấp lánh phóng ánh sáng trong mặt nguyệt lung linh, nét bút tinh xảo và xuất thần, ai thấy cũng phải tấm tắc là tuyệt diệu. Thế nhân gọi bức tranh này là “Thủy Nguyệt Quán Âm”.

Khi bức tranh Bồ Tát này vừa được vẽ ra rồi, dân chúng thành Cô Tô liền nối đuôi nhau trước nhà Khưu Tử Thanh, đều xin ông vẽ cho mình một bức. Khưu Tử Thanh muốn tuyên dương công đức của Bồ Tát nên ai xin cũng đều nhận lời, vì thế nên Phật tử đương thời ở đấy, ngoài bức “Sái Thủy Quán Âm” ra, phần đông cũng đều thờ bức “Thủy Nguyệt Quán Âm”, cứ thế cha truyền con nối cho đến ngày nay. Hiện thời ở Tô Châu, Hàng Châu, rất nhiều nhà riêng hãy còn thờ phụng bức tranh Thủy Nguyệt Quán Âm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/05/2017(Xem: 9282)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
28/07/2016(Xem: 4240)
Ở Việt Nam khi nói đến mùa mưa bão, người ta thường nghĩ đến khúc ruột miền Trung thường nhiều hơn. Thế nhưng, từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy, có khi đi gần vào đến bờ thì chuyển hướng ra Bắc hoặc vào Nam rồi bão tan. Không p
07/06/2016(Xem: 9047)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
09/04/2016(Xem: 15469)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4581)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 8846)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 9647)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 14978)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7199)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567