Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Bát Giác Đình

06/04/201114:36(Xem: 3521)
16. Bát Giác Đình

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

16. BÁT GIÁC ĐÌNH

Có một lần, vua Ung Chính nhà Thanh nghe nói rằng Phổ Đà Sơn là một thắng cảnh nổi danh toàn quốc, bèn tỏ ý muốn thân hành lên núi lễ bái Quán Âm để cho trăm họ trong thiên hạ biết rằng mình đây là một vị minh quân thánh hiền đại từ đại bi. Các quan trong triều nghe thế, đều can gián rằng Phổ Đà Sơn cách xa ngàn trùng, đường xá hiểm trở, chi bằng vua viết một bài văn khắc lên ngự bia, phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn cai quản việc xây một mái đình để thờ bia văn ấy cho toàn dân có dịp kính phục ngưỡng mộ.

Ung Chính nghe thế hết sức đẹp lòng, bèn phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn để xây dựng mái đình.

Mái đình che chở ngự bia phải xây ở đâu mới thích hợp? Vị khâm sai đứng ở khung cửa sổ chùa Phổ Tế, nhìn về phía trước chỉ thấy một bãi đầm lầy, nếu xây đình ngự bia ở bên cạnh đầm lầy thì cửa vào của chùa Phổ Tế sẽ bị che kín, không được! Nếu xây trên bờ đối diện của cái đầm thì lại rất thích hợp, nhưng phải đi vòng qua cầu Vĩnh Thọ, thế cũng không được!

Vị khâm sai thấy thật khó xử, ông nhíu chặt đôi lông mày, băng qua cầu Vĩnh Thọ, bước qua rồi đột nhiên kêu lên một tiếng:

– Đúng rồi! Xây cầu mới! Ở giữa đầm thì xây cái đình tám góc (bát giác), hai bên đình thì xây cái cầu bằng đá, khiến cho chùa Phổ Tế và đình ngự bia thông qua lại với nhau. Như thế vừa có cầu vừa có đình, thật là hùng tráng và trang nhã. Nếu vua mãn ý thì thế nào cũng thăng cho mình ba cấp quan là ít!

Quả nhiên, Ung Chính nhìn qua bản tấu thư, hỏi han một phen rồi bảo ông phải lo trông coi việc xây cất cho cẩn thận, để sớm về kinh thành phục chỉ.

Khâm sai đắc ý vô cùng, lập tức sai người tìm thợ thuyền xa gần, nào thợ đá, thợ mộc, thợ hồ, tới Phổ Đà Sơn nghe ông đọc thánh chỉ, và ra kỳ hạn trong vòng 100 ngày công việc phải xong.

Đầm lầy này nước thì sâu, bùn thì dơ, đám thợ thuyền ngâm mình trong đầm, mệt bở hơi tai sống dở chết dở, tốn một tháng tròn nền móng của đình mới xuất hiện lên khỏi mặt nước. Nền đình mỗi ngày một cao lên, không lâu nữa có thể dựng cột lợp ngói rồi. Khâm sai thấy tiến trình như thế thì rất vui mừng, vuốt râu gật đầu cười lên thích chí. Nào ngờ tiếng cười chưa dứt, chỉ nghe vọng lên “cô lô, cô lô”, bọt nước từ giữa đầm sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình đổ sụp xuống đáy không còn thấy đâu nữa.

Khâm sai lo lắng quá hai chân nhảy cỡn, mắng người cai thợ một trận, ra lệnh xây lại, không được trì hoãn kỳ hạn. Vị cai thợ chỉ biết ngậm đắng nuốt cay không nói ra lời, hướng dẫn mọi người đi kiếm vật liệu khác chở tới, lại ngâm mình trong đầm cả ngày lẫn đêm, một lần nữa mệt bở hơi tai sống dở chết dở, một tháng sau móng đình mới xuất hiện lên mặt nước trở lại. Khâm sai nóng ruột muốn cho mau xong, thôi thúc thợ thuyền khiêng gỗ xây đình. Có ai ngờ, cột đình mới dựng lên xong thì cũng một lần nữa, từ giữa đầm lại vọng lên “cô lô cô lô”, bọt nước sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình chìm xuống đáy nước không còn thấy đâu nữa.

Hai tháng đã trôi qua rồi, đừng nói gì tới cái đình tám góc, nội bóng dáng cái móng đình vẫn chưa thấy được. Khâm sai sốt ruột như thiêu như đốt, cả người cứ thế mà quay mòng mòng. Những tưởng mau xong việc mà về kinh lãnh thưởng, nay sự thể như thế này, đừng nói tới chuyện đầu đội mũ lông công (mũ của quan liêu trong lễ phục đời nhà Thanh), mà tính mạng của cả nhà chưa chắc đã giữ được. Ông càng nghĩ càng sợ, càng sợ càng dữ dằn, bèn hét lên ra lệnh lôi người cai thợ ra chém đầu làm gương!

– Khoan đã!

Chỉ thấy một ông già khoan thai, từ tốn đến trước mặt khâm sai, cung tay vái chào và nói:

– Đại nhân bớt giận, đây là đất Phật thanh tịnh, làm sao có thể động dao giết người được?

Khâm sai liếc mắt nhìn, thấy lão già đầu đội mũ cỏ, chân mang dép cỏ, áo bằng vải thô, dáng vẻ tầm thường nhưng mở miệng nói chuyện thì giọng thật oai hùng, sang sảng. Viên khâm sai đúng lúc đang bực bội, thấy một ông già không biết từ đâu lại mà còn tự nhiên xía vào chuyện của mình, lại càng thêm bực tức, lửa giận bốc lên phừng phừng gắt rằng:

– Ông là ai mà dám to gan đến thế?

Lão già không lộ ra chút gì là hoảng hốt sợ hãi, đáp rằng:

– Tôi từ vạn lý xa xăm đặc biệt tới đất Phật xây đình.

Khâm sai nghe ông lão nói mình biết xây đình vừa mừng vừa nghi, nhíu mắt nhìn ông lão từ trên xuống dưới để đánh giá rồi quát rằng:

– Ông đừng nói xằng nói điên, người như ông mà có thể xây nổi một cái đình tám góc sao?

– Xây một cái đình tám góc nhỏ xíu, có gì là khó? - Ông già trả lời thẳng thắn. Nhưng phải chịu ba điều kiện của tôi.

Khâm sai thấy cử chỉ của ông không giống phàm nhân, sau một lúc dò xét, suy nghĩ chín chắn rồi mới nói:

– Được rồi. Chỉ cần ông biết xây một cái đình tám góc, ra điều kiện gì ta cũng chịu.

– Thứ nhất, thả ông cai thợ.

Khâm sai đáp:

– Ta bằng lòng.

– Thứ hai, tạo đình trên đất Phật thì phải lấy từ bi làm căn bản, không được tùy tiện mắng mỏ công nhân.

Khâm sai đáp:

– Được, được!

– Thứ ba, xin đại nhân thêm cho kỳ hạn.

Đến đây khâm sai lắc đầu lia lịa:

– Không được! Phải xây đúng kỳ hạn, nếu không ta sẽ bắt tội ông!

– Ha ha!

Ông lão ngẩng mặt cười dài, rồi nghiêm sắc:

– Xử tử người thì dễ, xây đình mới khó. Bây giờ kỳ hạn 100 ngày gần tới rồi, ông làm sao để về kinh phục chỉ đây?

Câu hỏi này đánh trúng vào chỗ yếu của khâm sai, ông suy nghĩ mãi thấy không có cách nào khác, chỉ đành gật đầu chấp thuận.

Ngày hôm sau, ông lão không nói không rằng, một mình một thân nhảy xuống đầm cỏ sình lầy, sờ soạn bên này, rờ rẫm bên kia, suốt cả ba ngày mới tìm ra một cái “miệng rồng” ngay ở giữa đầm. “Miệng rồng” này thông qua biển lớn Đông Hải, bình thường thì bị bùn dơ bịt kín, nhưng đến ngày thủy triều lớn thì “cô lô, cô lô”, bọt sủi lên mặt nước, và bùn dơ hay rác rưởi gì cũng đều bị hút xuống đáy biển.

Ông lão tìm ra được “miệng rồng” rồi thì hớn hở trèo lên bờ. Lúc ấy tất cả đám thợ thuyền đều đứng chờ xem ý định của ông lão là gì, bèn vây xung quanh ông xin giao cho việc làm. Ông lão chỉ cười mà đáp:

– Không có gì gấp, các ông hãy chuẩn bị vật liệu đi!

Mọi người nghe thế đều ngẩn người ra:

– Vật liệu đã chuẩn bị xong từ lâu rồi, bây giờ ông giao việc gì khác đi chứ!

Ông lão nhìn mọi người rồi chỉ lên núi, chỗ có một đống đá vụn mà nói:

– Gánh hết chỗ đá vụn ấy xuống đây, chất lên hai bên bờ đầm, sẽ có lúc cần dùng!

Mọi người không biết ông lão đang nghĩ gì trong đầu nhưng không dám cưỡng lệnh, chỉ đành đi gánh đá vụn, không đầy một ngày, hai bên bờ đầm chất một đống đá vụn cao thật là cao. Tuy nhiên, ông lão trốn biệt trong một gian thiền phòng của chùa Phổ Tế, cửa đóng kín mít nhưng đèn đuốc sáng choang, và cả ngày chỉ nghe “sầm sập, sột soạt” chẳng ai biết ông đang làm gì trong ấy.

Sau ba ngày, mọi người vẫn thấy ông lão trốn trong thiền phòng chưa ló mặt ra, họ bắt đầu bàn tán xôn xao, người thì nói:

– Ông già này không có tài cán gì cả, chúng ta bị lừa rồi!

Người khác cho rằng:

– Ông già này dường như không muốn sống, tới đây tìm cái chết hay sao ấy!

Trong lúc mọi người đang bàn tán như thế thì đột nhiên nghe tiếng “cô lô cô lô” quen thuộc từ giữa đầm vọng lên, và nước sủi bọt không ngừng.

Ông già nghe âm thanh ấy, “sầm” một tiếng từ thiền phòng phóng ra, hai tay ôm một con rồng gỗ điêu khắc thật tinh xảo, đầu hất lên trời, duỗi chân dương móng, hệt như một con rồng thật. Ông già chạy đến gần đầm phóng con rồng gỗ lên trời, nghe “vù vù”, rồi có một con rồng toàn thân dát vàng đâm đầu xuống đầm, chúi xuống đáy nước. Đám thợ thuyền há hốc mồm ngây người ra mà nhìn, ông lão lớn tiếng giục giã họ đẩy đống đá vụn xuống đầm. Trong nháy mắt, từ giữa đầm lầy không còn thấy nước sủi lên nữa.

Ông lão lại nhẹ nhàng phi thân xuống ao, hướng dẫn đám công nhân khiêng đá đắp móng đình.

Kỳ lạ, lần này móng đình xây xong vững như bàn thạch, không còn sụp đổ nữa.

Chẳng bao lâu sau, một ngôi đình tám góc trang nhã xinh xắn được xây lên, hai bên đình là cây cầu đá nối ngự bia với cửa chính của chùa Phổ Tế.

Về sau người ta dọn sạch đầm lầy xung quanh đình, biến đầm trở thành một hồ sen. Mỗi lúc hoa sen nở rộ, tòa đình tám góc này trở nên một quang cảnh đặc biệt đẹp mắt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2018(Xem: 4561)
Dù hy vọng có mong manh đến đâu nó cũng không dễ bị dập tắt Ai biết điều diệu kỳ nào bạn có thể được ban tặng Khi bạn có đức tin Bằng cách nào đó bạn sẽ được ban tặng phép mầu Đây là bốn câu thơ trong bài nhạc WHEN YOU BELIEVE mà tôi thích được nghe và ngân nga âm hưởng theo mỗi khi cô ca sĩ Whitney Houston hát, vì nó gợi cho tôi nhớ những phép mầu tôi đã được nhận khi tìm đường sang quốc gia thứ ba và sống đến nay. Có biết bao người đã kể, đã viết về sự mầu nhiệm hiển linh từ Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng theo tôi nghĩ trong mỗi một câu chuyện chỉ có đương sự trong cuộc mới thấu hiểu nó diệu kỳ đến thế nào cho đời mình mà thôi, còn đôi khi dù có nói ra chưa hẳn nhiều người đã tin và còn cho là mê tín. Whitney Houston đã từng nói: “Bạn phải là một đứa con của Chúa mới có thể hiểu được chiều sâu của bài hát này”. Đức tin luôn mang lại cho con người sức mạnh thần kỳ để vượt qua những khó khăn tưởng chừng như vô vọng, ý nghĩa và câu chuyện về cuộc đời Thánh nhân Moise đã lắng đ
05/07/2018(Xem: 7766)
Sự Kiện11/6/1963 - Rùng mình nghe Bí Mật từ những Nhân Chứng Sống - không thể tin được
01/06/2018(Xem: 29686)
Nhằm tạo một cơ hội sinh hoạt chung để chia sẻ, học hỏi, thảo luận một số đề tài liên quan đến công việc Hoằng pháp, Giáo dục, Văn học Nghệ thuật Phật Giáo, và Ra Mắt Sách chung, một buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU sẽ được tổ chức tại Viet Bao Gallery, 14841 Moran St. Westminster, CA 92683, vào lúc 4:30--8:30 Chiều, Thứ Bảy, ngày 2 tháng 6, 2018.
17/04/2018(Xem: 3967)
Bodhisattva (Sanscrit), Bodhisat(Pali). Viết trọn chữ theo tiếng Phạn là: Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề, Bodhi là Chánh Giác. Tát Đỏa, Sattva là chúng sanh. Bậc đắc quả vị Phật nhưng còn làm chúng sanh để giác ngộ chúng sanh. Bậc đã được tự giác, chứng quả Giác Ngộ, Bồ Đề, một bậc nữa là chứng quả vị Phật, Thế Tôn, bèn chuyễn phương tiện ra đi cứu độ chúng sinh. Giống như trường hợp của Đức Phật Thích Ca đã trãi qua những đời trước làm Bồ Tát. Đến đời sau rốt tham thiền nhập định dưới cội Bồ Đề mới thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.
15/12/2017(Xem: 137222)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
01/08/2017(Xem: 5062)
Sơ Lược về Bồ Tát trong Nguyên Thủy, Đại Thừa và ảnh hưởng của Bồ Tát ở Việt Nam vào Thế Kỷ 19 và 20 , bài của Nguyễn Thúy Loan
23/06/2017(Xem: 6782)
Suốt ngày 22 tháng 6 năm 2017 vừa qua, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, nhân mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, tôi để tâm đọc quyển sách nầy trong vô cùng trân trọng, sau khi nhận được sách gửi tặng từ Thượng Tọa Thích Minh Định. Xin vô cùng niệm ân Thầy. Đọc sách, Kinh, báo chí v.v… vốn là niềm vui của tôi tự thuở nào chẳng biết,
28/05/2017(Xem: 11142)
Giáo lý đạo Phật là gì? Giáo lý đạo Phật là phương tiện để điều trị thân bệnh và tâm bệnh, là dược liệu của sự chân thật giúp cho người bệnh hiểu rõ bản chất của sự thật, của chân tâm để đạt đến sự giác ngộ rốt ráo. Chúng sinh do tâm bệnh nên có thân bệnh phát tác và mãi trong chuỗi dài sinh tử luân hồi, con người phải trải qua bốn giai đoạn là sinh, già, bệnh, chết; là quy luật tất yếu của thế giới sinh – diệt, chúng sinh nào muốn liễu sinh thoát tử, phải điều trị bệnh bằng các bài thuốc mà đức Phật đã chỉ dạy.
28/07/2016(Xem: 4628)
Ở Việt Nam khi nói đến mùa mưa bão, người ta thường nghĩ đến khúc ruột miền Trung thường nhiều hơn. Thế nhưng, từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy, có khi đi gần vào đến bờ thì chuyển hướng ra Bắc hoặc vào Nam rồi bão tan. Không p
07/06/2016(Xem: 9557)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]