Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi dòng cảm niệm khi phiên tả bài giảng của TT Nguyên Tạng về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa"

25/09/202408:14(Xem: 3859)
Đôi dòng cảm niệm khi phiên tả bài giảng của TT Nguyên Tạng về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa"
Thieu Khang To Su-tt nguyen tang
tt nguyen tang-17a

Đôi dòng cảm niệm
khi phiên tả bài giảng của TT Nguyên Tạng
về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa"





Nam Mô A Di Đà Phật


Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Thầy

 

Con vừa ghi lại buổi pháp thoại Thầy thuyết giảng về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa", con kính gửi Thầy xem lại và chỉnh sửa trước khi online.

Con kính cám ơn Thầy cho phép con phiên tả, vì đây là cơ hội để con chú tâm, nhờ vậy con hiểu thêm được ít nhiều về giáo lý Phật Đà để thêm vào vốn liếng quá ít ỏi của con.

Bạch Thầy, con chợt nhận ra rằng: Thầy đã dùng phương tiện này để dẫn dắt con, thay vì như Tổ Thiếu Khang cho tiền để trẻ niệm A Di Đà, Thầy đã khéo léo bảo con tường thuật để cột tâm con vào một mối không đi lang thang như những khi con ngồi nghe giảng hay tụng kinh. Con kính tri ân Thầy.

Qua hành trạng của vị Tổ thứ năm nay, ngoài câu niệm Phật, con còn thấy được tình của người Mẹ thương con, mà có lẽ được dẫn dắt qua tiểu sử của Ngài để ca tụng về tình Mẹ cao quý mà không bút mực nào tả xiết, chính người Mẹ đã hiểu, thương con và dẫn dắt con vào con đường Đạo.

Ngài còn hướng dẫn chúng con xa lìa đời ác trược, cũng như nhắc nhở chúng con về lòng hiếu thảo, kính dưỡng Mẹ Cha làm con rất cảm động.

Ngoài ra Thầy đã khéo léo nhắc nhở cho chúng con, kể cho chúng con nghe về hành trạng của Chư vị Tổ Sư qua các thời đại. Trong đó Thầy nhắc tới  tổ thứ chín là Ngài Phục Đà Mật Đa  và Tổ thứ tám là Phật Đà Nan Đề

Khi gặp được Sư Phụ là Phật Đà Nan Đề, Ngài Phục Đà Mật Đa ngồi bật dậy hỏi:

" Cha mẹ chẳng phải thân,

Ai là người chí thân?

Chư Phật phi đạo tôi,

Cái gì là Phật đạo?"

Ở trên cuộc đời này ai là người thân nhất ngoài cha mẹ? trong đạo Phật cái gì là cao nhất? Đạo rốt cuộc là gì?

 

Tổ Phật Đề Đà Na đáp:

" Lời người cùng thân tâm

Cha Mẹ không thể sánh

Hạnh ngươi cùng đạo nghiệp

Chư Phật chính là tâm

Ngoài cầu Phật có tướng

Cùng người không chút giống

Nếu biết bổn tâm ngươi

Chẳng hợp cũng chẳng lìa"

Nói về thế gian thì Cha Mẹ không có gì sánh bằng, còn xuất thế gian thì thân nhất chính là  tâm của mình. Chỗ tột cùng của Đạo chính là tâm. Chư Phật chính là tâm, đó là chỗ rốt ráo cuối cùng.

 

Ngoài ra con cũng rất cảm động khi thấy Thầy đọc bài kệ khuyến tấn người niệm Phật, nhắc đến mẹ Tâm Thái, người Mẹ suốt đời tần tảo vì con mà đã có lần con nghe Thầy kể, Mẹ phải đi mười cây số mỗi ngày, nhỏ mồ hôi trên cánh đồng để cấy lúa nuôi các con, Mẹ tận tụy xỏ từng cọng chiếu để có tiền nuôi đàn con sớm mồ côi cha từ bé, tất cả tình yêu Mẹ dồn cho các con, Mẹ cũng đã ươm hạt giống Bồ Đề cho các con từ thuở ấu thời. Có lẽ vì bao cảnh đời nghiệt ngã mà Mẹ trải qua để cho Mẹ cảm nhận được Tứ Thánh Đế của Đức Phật, sanh ra cuộc đời này là khổ, để rồi từ đó nhận ra con đường, chấp nhận để rồi xả ly.

Ngồi nghe pháp thoại, con thấy Thầy đọc từng chữ, từng câu của Mẹ Tâm Thái, mắt Thầy nhắm lại như tưởng nhớ tới Người, lúc đó con cảm động nên viết:

Thầy ơi, Thầy niệm Di Đà

Con nghe sao thấy thật là dễ thương

Hình mẹ Tâm Thái tấm gương

Trong Thầy ẩn hiện tình thương Mẹ hiền

A Di Đà Phật triền miên

Niệm đi, niệm mãi oan khiên hết liền

Niệm Phật con thấy Mẹ hiền

A Di Đà Phật gắn liền trong con

Thương Mẹ đức hạnh vuông tròn

Mẹ ơi, ân Mẹ như hòn núi cao

A Di Đà Phật khát khao

Như con khát Mẹ tình nào cho con

Kính Mẹ hạnh nguyện vuông tròn

Thương đời dẫn đạo không mòn Mẹ ơi!

A Di Đà Phật muôn nơi

Xa lìa bể khổ qua đời Lạc Bang

Bao năm người đã lang thang

Tìm về bờ giác chốn vàng người đi

Niệm Phật người thoát sân si

Niệm Phật người biết lối đi đường về

 

Bài pháp thoại về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Trung Hoa" với con thật vi diệu, hình ảnh người Cha, người Mẹ tận tụy suốt đời bên con, không quản nhọc nhằn, dù bao năm tháng cưu mang, nuôi con khổ nhọc, chỉ  mong cho con nên người.

Bài tường thuật con viết, con chỉ bỏ đi những chỗ dư thừa và viết lại cho gọn, con viết lại tất cả những bạn đồng tu làm MC, đặt câu hỏi v.v... để mai này khi có ai đó đọc sẽ nhớ lại hình ảnh ngày hôm nay như một kỷ niệm êm đềm, để tìm lại tình Thầy Trò thân thương mà quên đi ngoài kia bao cảnh đời khổ đau hoạn nạn, để cùng cầu nguyện cho thế giới hôm nay, cho Việt Nam ngày mai tươi sáng.

 

Con nghe pháp thoại, viết bài quên đi cảnh bão lụt nơi quê nhà. Hôm nay con vừa xem, sau 13 ngày nơi làng Nủ, con thấy cảnh một người đàn ông mất cả mẹ và vợ con mình, mắt anh nhìn hoang dại, anh đi tìm kiếm ở trong vùng lầy kia... Người ta mang thức ăn biếu, anh cũng không nhận và chỉ xin bốn chiếc áo quan, và rồi hôm kia anh nằm mộng, thấy bé út 1 tuổi của anh báo mộng, từ mờ sáng tinh sương, anh đã ngồi đó chờ đợi, và rồi người ta đã vớt được thi thể cháu dập nát, cả làng đã mang chiếc quan tài, chiếc áo quan lớn hơn cháu, họ bỏ vào tấm mền mới tinh, in những bông hoa vàng, đỏ bỏ vào  chiếc áo quan chôn cháu, cả làng nước mắt đầm đìa. Ôi tình thương của người cha cao quý đã tạo nên sự cảm ứng mà tìm thấy xác con mình bé bỏng, thật linh thiêng!

Giữa cảnh tang thương họ để lên chiếc áo quan một bát cơm và một trái trứng cúng cho cháu, những nắm hương họ đốt lên cho cháu, khói nhang lan tỏa giữa cảnh tan hoang, tạo nên khung cảnh u buồn với những oan hồn vất vưởng ẩn hiện trong lớp khói mây của miền rừng núi,  nhưng con tìm thấy trong đó những dòng nước mắt, họ mừng cho anh tìm thấy xác của tất cả thân nhân, anh đã bế đứa con út, dù không còn sự sống. Con tìm thấy tình người trong cảnh tận cùng của khổ đau.

Con theo làn khói nhang của người dân làng Nủ, con niệm Đức A Di Đà, cầu cho mọi tang thương qua khỏi, cho người dân làng Nủ, hơn ba mươi nóc nhà đã vùi sâu theo con lũ. Con cầu cho các hương linh được thoát vòng sanh tử về miền Tịnh Độ. Con kính mong khi Phật tử về Thầy cùng Tăng Đoàn cầu nguyện cho họ mau siêu thoát:

Một lòng con niệm Di Đà

Cho người trần thế chan hòa niềm vui

Bao nhiêu sự khổ thối lui

Bao nhiêu hạnh phúc vui câu Di Đà

Nguyện cho khắp cả mọi nhà

A Di Đà Phật thoát xa nỗi sầu

 

 

Nam Mô Thiếu Khang Ngũ Tỗ Liên Tông Tịnh Độ Tôn Sư tác đại chứng minh
Offenback, Tây Đức 24/9/2024
Đệ tử Diệu Danh


🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

tt nguyen tang-11tt nguyen tang-23tt nguyen tang-21
Chúng ta thấy rằng cuộc đời của Ngài Thiếu Khang rất là kỳ đặc, sanh ra cho tới năm bảy tuổi Ngài không nói tiếng nào hết, tới năm bảy tuổi bà mẹ mới dẫn Ngài đi chùa, bản tánh của người mẹ rất thương con, dù con không nói được tiếng nào nhưng bà vẫn nói chuyện, vẫn tâm sự với con, dẫn vào Chánh điện lễ Phật chỉ vào tượng Phật hỏi mới biết con mình biết nói, Bà rất cảm động vui mừng vì không ngờ con mình im lặng bảy năm trời hôm nay mới mở miệng nói, mà nói đúng tên Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vị Giáo chủ của cõi Ta Bà, thật là tuyệt vời. Khi đọc tiểu sử của Ngài Thiếu Khang Thầy nhớ tới câu chuyện của Tổ thứ chín của Thiền tông Ấn Độ là Tổ Phục Đà Mật Đa (Buddhamitra) đệ tử của Tổ Phật Đà Nan Đề, sanh ra sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khoảng ba trăm năm. 

🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

Kính mời xem tiếp bài phiên tả 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 9338)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10891)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3579)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5289)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3228)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10444)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3718)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14941)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3460)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 13299)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]