Phiên tả lại buổi thuyết giảng của TT Nguyên Tạng về
"Hành Trạng và Tư Tưởng Thiếu Khang Đại Sư
Trung Hoa Liên Tông Ngũ Tổ"
MC Ngọc Sáng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Thượng Tọa Giảng Sư,
Hôm nay ngày thứ Năm 19/9/2024 vào lúc 20 giờ tại Đạo Tràng tu học mỗi thứ Năm hàng tuần của Ban Truyền Bá Phật Pháp Châu Âu. Đạo Tràng chúng con xin đảnh lễ Thượng Tọa và kính thỉnh Thầy hướng dẫn chúng con niệm Phật cầu gia bị.
Thượng TọaGiảng Sư: Nam Mô A Di Đà Phật, kính mời Chư Tôn Đức và Phật tử chấp tay nghiêm trang niệm Phật cầu gia bị.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
MC Ngọc Sáng: Kính xin Thầy cho chúng con được giới thiệu đôi nét về Thầy đến với Đại chúng.
Kính thưa Đại chúng, Giảng Sư của lớp học hôm nay là TT đạo hiệu Thích Nguyên Tạng, hiện nay TT đang là Tổng Thư Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi -Tân Tây Lan.
Vào đầu tháng 7/2014 TT được tấn phong làm Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức, với những đóng góp thiết thực cho Tôn Giáo: văn hóa, giáo dục, từ thiện Thầy được chính phủ Liên Bang Úc Đại Lợi trao tặng huy chương Thiên Niên Kỷ (Centenary Medal) nhân dịp kỷ niệm một trăm năm thành lập Chính Quyền Liên Bang (1901-2001) của quốc gia này. Chúng con thành tâm cung kính giới thiệu Thượng Tọa.
Thưa, hôm nay Đạo Tràng chúng con có phước báu lớn được Thầy quang lâm hướng dẫn tu học lần thứ sáu với đề tài pháp thoại Hành Trạng và Tư Tưởng Thiếu Khang Đại Sư, chúng con kính cung thỉnh Thầy bắt đầu buổi Thuyết giảng.
Thượng Tọa Giảng Sư: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Cám ơn MC Ngọc Sáng từ Hòa Lan giới thiệu Thầy trong buổi thuyết giảng hôm nay. Thầy xin lỗi Đại chúng vì tuần rồi Thầy bị cảm nên đã thỉnh TT Phổ Huân Trụ Trì Chùa Pháp Bảo tại Sydney giảng sớm một tuần. Hôm nay Thầy cũng đỡ đỡ rồi, vẫn còn uống thuốc. Đang cuối mùa lạnh nên quý Ngài dễ bị cảm cúm trong đó có Thầy.
Theo chương trình TT Trưởng ban Thích Hạnh Tấn cho biết, Ngài thỉnh TT Hạnh Tuệ bên Hoa Kỳ phụ trách giảng chủ đề hôm nay, tức là Hành Trạng và Tư Tưởng của Thiếu Khang Đại Sư là vị Tổ thứ năm của Tịnh Độ Tông Trung Hoa, nhưng TT Hạnh Tuệ giờ chót cáo lỗi vì bận Phật sự nhiều quá cho nên không giúp được, vì thế Ngài mới thỉnh Thầy. Thầy rất hoan hỉ, không có gì trở ngại hết, chỉ có điều vừa rồi thân ngũ uẩn bất an nên không lên lớp được thôi.
Sáng hôm nay từ Úc Châu là 4 giờ sáng ngày 20/9/2024 nhằm ngày 18/8 âm lịch Giáp Thìn: Phật lịch 2568, chúng ta có lớp học Truyền Bá Phật Pháp Âu Châu về chủ đề là Hành Trạng và Tư Tưởng của Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ năm của Tịnh Độ Tông Trung Hoa. Tính cho đến thời điểm này thì lớp Online này chúng ta đã học qua bốn vị Tổ Trung Hoa, thứ nhất là Tổ Huệ Viễn, thứ hai là Tổ Thiền Đạo (Thầy đã giảng), thứ ba là Tổ Thừa Viễn, thứ tư là Tổ Pháp Chiếu, hôm nay thứ năm là Tổ Thiếu Khang.
Chúng ta thấy rằng các vị Tổ Tịnh Độ Tông không giống như Tổ Sư bên Thiền tông. Tổ Sư bên Thiền tông thì quý Ngài truyền thừa từ vị này qua vị khác liên tục, từ Sơ Tổ Ca Diếp cho tới Tổ Huệ Năng.
Sự truyền thừa đó không gián đoạn, nhưng mà phía bên Tịnh Độ Tông chuyển luân chúng ta thấy rằng cái sự truyền thừa không có sự liên tục, mà các vị nào được tôn xưng lên Tổ là do sự sắp xếp của các chư Tổ sư sau này tôn vinh quý Ngài lên ngồi ngôi vị Tổ thôi chứ không có sự truyền thừa từ vị này qua vị khác. Thí dụ như Ngài Sơ Tổ Huệ Viễn từ thời Tây Tấn cho tới hơn một trăm năm sau thì Nhị Tổ Thiện Đạo vào thời đại Nhà Đường. Trong thời đại Nhà Đường kéo dài suốt cho tới Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp Chiếu, tới Ngài Thiếu Khang. (Trong thời đại Nhà Đường có thêm mấy vị nữa mới tới Ngài Thiếu Khang), cho tới Ngài Diên Thọ, Tổ thứ sáu đã qua tới triều đại Nhà Tống rồi, Tổ thứ bảy là Ngài Tỉnh Thường triều đại Nhà Nguyên, kéo dài về sau này các Ngài Liên Trì, Ngài Ấn Quang kéo dài tới triều đại Nhà Minh tới Nhà Thanh. Tức là nhà Tấn, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh. Nghĩa là mười ba vị Tổ của Tịnh Độ Tông đã trải dài cách biệt qua tất cả các triều đại như trên và do các vị sau này mà chúng ta biết được.
Hôm nay chúng ta tìm hiểu về Ngài Thiếu Khang. Ngài người Hòa Châu, ra đời vào thời đại Nhà Đường kéo dài hai trăm tám mươi chín năm bắt đầu từ năm 618 đến 907, triều đại này rất hùng mạnh của Trung Hoa.
Ngài Thiếu Khang ra đời ở vùng núi Yên Đô, xứ Tấn Vân. Từ buổi sơ sanh Ngài im lặng không nói, cho đến năm bảy tuổi nhân lễ trai hội, Ngài theo mẹ vào chùa lạy Phật. Người mẹ chỉ tượng Phật hỏi đùa với con trai rằng: "Con có biết đó là ai chăng?" Ngài bỗng ứng tiếng đáp: "Đó là Đức Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Thế Tôn". Biết con mình có duyên với Phật Pháp cho nên cha mẹ Ngài liền cho đi xuất gia. Căn cơ linh mẫn, đến năm mười lăm tuổi Ngài đã thông suốt được năm bộ kinh. Đó là đoạn đầu tiểu sử rất ngắn của Đại Sư Thiếu Khang vị Tổ thứ năm của Tông Tịnh Độ vào thời đại Nhà Đường.
Chúng ta thấy rằng cuộc đời của Ngài Thiếu Khang rất là kỳ đặc, sanh ra cho tới năm bảy tuổi Ngài không nói tiếng nào hết, tới năm bảy tuổi bà mẹ mới dẫn Ngài đi chùa, bản tánh của người mẹ rất thương con, dù con không nói được tiếng nào nhưng bà vẫn nói chuyện, vẫn tâm sự với con, dẫn vào Chánh điện lễ Phật chỉ vào tượng Phật hỏi mới biết con mình biết nói, Bà rất cảm động vui mừng vì không ngờ con mình im lặng bảy năm trời hôm nay mới mở miệng nói, mà nói đúng tên Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vị Giáo chủ của cõi Ta Bà, thật là tuyệt vời. Khi đọc tiểu sử của Ngài Thiếu Khang Thầy nhớ tới câu chuyện của Tổ thứ chín của Thiền tông Ấn Độ là Tổ Phục Đà Mật Đa (Buddhamitra) đệ tử của Tổ Phật Đà Nan Đề, sanh ra sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khoảng ba trăm năm.
Trong mùa dịch Covid vừa rồi Thầy bắt đầu giảng về ba mươi ba vị Tổ Thiền Tông Ấn-Hoa, tức là tính từ Tổ Ca Diếp xuống cho tới Tổ Bát Nhã Đà La thứ hai mươi bảy, Tổ Bồ Đề Đạt Ma thứ hai mươi tám. Sau đó Ngài Bồ Đề Đạt Ma mới truyền qua Trung Hoa, truyền xuống cho Ngài Huệ Khả, Ngài Tăng Xán, Ngài Đạo Tín, Ngài Hoàng Nhẫn, Ngài Huệ Năng. Từ Ngài Huệ Năng mới chia chẻ ra năm Thiền phái là Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn. Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng, tức là Ngũ Gia Thất Tông, 5 nhà 7 phái. Tất cả những Thiền phái sau này được truyền ra Hải ngoại: Mỹ, Canada, Âu Châu, Úc Châu, là phát xuất từ những tông phái này.
Tổ thứ chín là Ngài Phục Đà Mật Đa (Budhamitra). Cuộc đời của Ngài này còn kỳ đặc hơn Ngài Thiếu Khang, vì khi Ngài sanh ra Ngài không nói chuyện và cũng không đi, nằm một chỗ kéo dài đến năm mươi năm, vậy mà cha mẹ Ngài vẫn yêu thương và chăm sóc, an ủi, vỗ về Ngài.
Năm Ngài 50 tuổi, một hôm Thiền sư có tên là Phật Đà Nan Đề (Tổ Ấn Độ thứ 8) đi du hóa và nói với chúng đệ tử; "Từ xa ta thấy trên ngôi nhà này có ánh hào quang, trong nhà này có Thánh nhơn xuất hiện" Ngài liền đến trước cửa gõ. Ông trưởng giả chủ nhà ra đón tiếp đón vị Tổ thứ tám Phật Đà Nan Đề.
Phật Đà Nan Đề mới nói với ông Trưởng giả rằng; "Ta nhìn thấy ánh hào quang ở trên nhà này nên ta muốn vào tìm người đó". Ông trưởng giả cha của Ngài Phục Đà Mật Đa nói rằng: "Trong nhà này không có người mà ông muốn tìm, nhà tôi chỉ là những con người bình thường thôi, nhưng tôi có một đứa con sanh ra năm mươi năm rồi mà nó chưa biết nói chuyện và không biết đi, cả nhà đều xem là bị tật không làm gì được hết, nếu Ngài cần thì tôi cho Ngài". Tổ Phật Đà Nan Đề trả lời: "Đó chính là người tôi cần tìm". Trưởng giả mời Ngài vào nhà vừa tới phòng khách thấy Phật Đà Nan Đề, Ngài Phục Đà Mật Đa liền ngồi dậy chắp tay và hỏi vị Tổ thứ tám:
"Phụ Mẫu phi ngã thân,
Thùy vi tối phong giả,
Chư Phật phi ngã đạo
Thùy vi tối giả đạo?"
HT Thích Thanh Từ dịch:
"Cha mẹ chẳng phải thân.
Ai là người chí thân?
Chư Phật phi đạo tôi,
Cái gì là tột đạo? "
Nghĩa là năm mươi năm không nói chuyện mà khi mở miệng ra là không ai hiểu Ngài nói gì, chỉ có Tổ thứ tám mới hiểu ý của đệ tử này thôi. Tổ đáp lại:
"Nhữ ngôn dữ thân tâm,
Phụ mẫu phi khả tỷ,
Nhữ hạnh dữ đạo hiệp
Chư Phật tâm tức thị
Ngoại cầu hữu tướng Phật,
Dữ nhữ bất tương tợ,
Nhược thức nhữ bổn tâm,
Phi hiệp diệc phi lý"
HT Thích Thanh Từ dịch:
"Lời ngươi cùng thân tâm,
Cha mẹ không thể sánh,
Hạnh ngươi cùng đạo nghiệp,
Chư Phật chính là tâm,
Ngoài cầu Phật có tướng,
Cùng ngươi không chút giống,
Nếu biết bổn tâm ngươi,
Chẳng hiệp cũng chẳng lìa"
Câu hỏi của Ngài Phục Đà Mật Đa: "Ở trên cuộc đời này ai là người thân nhất ngoài cha mẹ? Trong đạo Phật cái gì là cao nhất? Đạo rốt cuộc là gì?"
Tổ Sư Phật Đà Nan Đề trả lời: "Ở trong cuộc đời này không ai thân với mình bằng cha mẹ, cha mẹ là cái người thân nhất của người con".
Đi khắp nhân gian này tìm ra một người thân, một người thương vô điều kiện không ai bằng cha bằng mẹ của mình. Nhưng thói thường của con người khi chúng ta lớn lên thì thường chúng ta coi vợ, hoặc chồng là người thân của mình, chứ không phải cha mẹ, vì bản năng của con người khi mà có con lại thấy con thân hơn cả vợ hoặc chồng, thay đổi theo thời gian. Nhưng chân lý muôn đời cha mẹ vẫn là người thân nhất của mình, không có gì so sánh được, cho nên Ngài Phật Đà Nan Đề mới nói rằng: Phụ mẫu phi khả tỷ = Cha mẹ không thể sánh, đó là nói về thế gian, còn nói về xuất thế gian, cái thân nhất chính là tâm của mình, cái chỗ tột cùng của Đạo đó chính là tâm: Chư Phật tâm tức thị, Chư Phật tức thị tâm, đó là chỗ rốt ráo cuối cùng. Tìm chư Phật ở bên ngoài không có mà tìm ngay trong chính tâm mình.
Sau khi nghe Tổ Phật Đà Nan Đề giải thích như vậy Phục Đà Mật Đa đã tỉnh ngộ, bước xuống giường đi bảy bước đảnh lễ Ngài và xin xuất gia.
Lúc đó Tổ Sư Phật Đà Nan Đề kể lại chuyện cổ tích là Ngài Phục Đà Mật Đa vốn là một vị đệ tử Phật từ quá khứ có phát một đại nguyện: Khi ra đời nếu mà gặp cha mẹ mà tùy thuận ý nguyện xuất gia của mình, thì gặp Sư phụ Ngài mới mở miệng nói chuyện. Vì thế Ngài nằm đó chờ đợi suốt năm mươi năm để gặp Sư phụ Phật Đà Nan Đề tới mới khai khẩu và xin đi xuất gia, và sau đó trở thành vị Tổ thứ chín của Thiền Tông Ấn Độ. Và đến vị Tổ thứ mười là Ngài Hiếp Tôn Giả, cũng là người kỳ đặc, ở trong bào thai mẹ tới sáu mươi năm mới sanh ra, cho nên Ngài được xem là "hài nhi tóc bạc" của Ấn Độ (vì vừa sanh ra đời tóc Ngài đã bạc) đến khi gặp Tổ Phục Đà Mật Đa thì xin xuất gia, Ngài Hiếp Tôn Giả (hông chẳng hề dính chiếu), Ngài phát nguyện dành thời gian tu tập không nằm ngủ nữa, vì Ngài đã ngủ sáu mươi năm rồi, Trong luật Sa Di có câu: “Hiếp Tôn Giả, nhất sanh hiếp bất trước tịch”, nghĩa là “Cả một đời hông của Ngài không nằm dính chiếu”, đó là vị Tổ thứ mười của Phật Giáo Ấn Độ.
Trở lại cuộc đời của Đại Sư Thiếu Khang: Niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu, Đại Sư đến viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ để sách trong đại điện phóng quang, Ngài lại tìm xem, thì ánh sáng phát xuất từ tập văn Tây Phương Hóa Đạo của Thiện Đạo Hòa Thượng Ngài liền khấn rằng: “Nếu tôi có nhân duyên với Tịnh độ, nguyện tập văn này phóng quang một lần nữa!” Vừa dứt lời, ánh sáng lại càng chiếu ra rực rỡ, trong ấy ẩn hiện hình dạng các hóa Bồ Tát. Ngài chấp tay nói: “Kiếp đá có thể mòn, nguyện này thề không dời đổi!”.
Thầy tra trong lịch sử thì biết rằng triều đại Trinh Nguyên năm đầu là thuộc thời Vua Đường Đức Tông (785). Từ Nhị Tổ Thiện Đạo (ở vào thời Vua Đường Thế Dân, 598-649) tới thời của Ngài Thiếu Khang là tổ thứ năm, thì Ngài Thiện Đạo xuất hiện trước Ngài một trăm năm.
HT Thiền Tâm dịch ra Việt Ngữ, Ngài dùng từ “kiếp đá” rất hay. “Kiếp đá có thể mòn”, ở trong kinh giải thích thời gian dài lâu tính bằng nhiều thí dụ: như Giới tử kiếp (kiếp tính bằng hạt cải); Hằng sa kiếp (thời gian tính bằng số lượng cát của sông Hằng); Vi trần kiếp (thời gian tính bằng những hạt bụi) và Bàn thạch kiếp (thời gian tính bằng sự mòn của tảng đá).
Tính bằng cách nào? Một tảng đá dài một do tuần (một do tuần khoảng 16 cây số vuông). Cứ mỗi một trăm năm, có một tiên nữ từ cõi trời thứ ba mươi ba ghé ngang tảng đá đó dùng một tấm vải lụa thật là mỏng quét trên tảng đá 16 km một lần, một trăm năm quét 1 lần, quét cho tới khi nào nó mòn sát xuống mặt đất thì mới tính ra một đại kiếp.
Nếu tính chi tiết thì một tiểu kiếp có mười sáu triệu tám trăm ngàn năm. Trong kinh Di Lặc Hạ Sanh nói rằng từ thời này thì còn một tiểu kiếp nữa thì Đức Phật Di Lặc sẽ ra đời; nghĩa là còn đến mười sáu triệu tám trăm ngàn năm nữa, chứ không phải tính theo một số người Việt Nam rằng năm 2000 là năm tận thế rồi Hội Long Hoa sẽ ra đời, cho nên ở Việt Nam mình từ Phan Thiết cho đến, Nha Trang, Khánh Hòa, Phú Yên, Quảng Ngãi họ đua nhau đi trồng Thanh Long (được trồng chủ yếu để lấy quả, thuộc họ Xương rồng. Loại ruột trắng/tím, vỏ hồng hay đỏ; Ăn quả thanh long mỗi ngày sẽ giúp chống oxy hoá, bảo vệ tế bào của cơ thể khỏi những phân tử không ổn định và từ đó ngăn ngừa một số nguy cơ mắc bệnh mãn tính và lão hoá).
Có lẽ người Việt Nam mình học trong Kinh A-Hàm dạy rằng: “Long-Hoa tam hội nguyện tương phùng”, có nghĩa là “nguyện ước về sau được gặp nhau trong 3 hội Long-Hoa của Phật Di Lặc. Vì thế nào thì một trong ba hội đó cũng có mặt của mình. Ba Hội đó được Kinh mô tả với số lượng: hội thứ nhất Phật Di Lặc độ được 96 ức người thành đạo; hội thứ hai độ được 94 ức người và hội thứ ba độ được 92 ức người.
1 tiểu kiếp: 16 triệu 800 ngàn năm
1 trung kiếp: có 20 tiểu kiếp: 16.800.000 x 20 = 336.000.000
1 đại kiếp có 4 trung kiếp: 336.000.000 x 4 = 1.344.000.000
Đây chỉ là những con số ước lệ. Nếu tính theo người tu giác ngộ một tiểu kiếp hay đại kiếp chỉ là một khảy móng tay thôi. Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời. Chúng ta vì mê, vì vô minh che lấp từ hằng sa kiếp, nhưng khi mình ngộ giống như mình đem một ngọn đèn sáng vào trong phòng tối thì tức khắc là tất cả bóng đen từ vô minh, trần sa kiếp sẽ tan biến ngay tức khắc.
Thầy xin nhắc lại, kiếp đá là chỉ tính theo ước lệ thời gian và chỉ tính theo tình tự, căn cơ của mỗi chúng sanh mà thôi. Nếu căn cơ nhanh lẹ chỉ cần trong một sát na chứ không cần phải trải qua bàn thạch kiếp như lời phát nguyện của Tổ Sư Thiếu Khang. Bằng chứng điển hình nhất là sự chứng ngộ đạo quả A La Hán của Ngài Thánh Tăng Sivali chỉ xảy ra trong thời gian cạo tóc ngắn ngủi chứ không cần phải trải qua nhiều kiếp sống như trong kinh sách mô tả.
Nhân đó, Đại sư đến Trường An, chiêm lễ di tượng của Thiện Đạo Hòa Thượng. Đang khi lễ, tượng của Nhị Tổ bỗng bay lên, bảo Ngài rằng: “Ông nên y theo lời dạy của ta mà phổ độ chúng sanh, ngày kia công thành, sẽ sanh về Cực Lạc!”. Đi ngang qua Giang Lăng, Ngài gặp một Sư cụ bảo: “Ông muốn hoằng hóa, nên sang xứ Tân Định, cơ duyên ở nơi đó!” Nói xong bỗng biến mất.
Sau thời gian ấy, Đại sư, đến xứ Tân Định, thấy người xứ này chưa biết niệm Phật là gì. Dùng phương tiện, ban sơ Ngài quyên tiền dẫn dụ trẻ con niệm Phật. Nếu đứa nào niệm Phật được một câu Ngài liền thưởng cho một đồng tiền. Như thế hơn một năm, rồi không cần thưởng tiền, chúng nó cũng niệm. Tập quán lần quen, về sau lúc gặp Đại sư ở trong nhà hay đi chơi ngoài đường, chúng cũng vẫn niệm. Từ đó, nam nữ, già trẻ, hễ thấy Ngài đều niệm: A Di Đà Phật! Nhân sự việc này, dân chúng vùng ấy lần lượt phát tâm thờ cúng niệm Phật rất nhiều.
Xứ Tân Định ở đâu, Thầy tìm hiểu mới biết nay là thành phố Kiến Đức, tỉnh Chiết Giang.
Đây là một hành trạng rất đặc biệt của Đại Sư Thiếu Khang, tính cho đến bây giờ là khoảng một ngàn hai trăm năm trước, Ngài dùng phương tiện cho tiền các em thiếu nhi để dẫn dụ các em niệm Phật. Từ đó cho đến sau này nhiều người vẫn theo phương pháp này, thí dụ như ở Nhật Bản có Thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin Ekaku,1685–1768) nổi tiếng. Ngài là một nhà thơ, một họa sĩ của Phật Giáo Nhật Bản theo truyền thống Thiền Lâm Tế, cách giáo hóa của Thiền Sư Bạch Ẩn rất nhẹ nhàng, không đánh, không hét như là các vị Thiền sư Trung Hoa mà Ngài Bạch Ẩn dùng những câu thơ, hay là những câu khai thị, hoặc một nét vẽ của Ngài để khai thị cho chúng sanh.
Ngài Bạch Ẩn nổi tiếng với câu chuyện THẾ À: Gần chùa Ngài sinh sống có một gia đình làm nghề buôn bán. Một ngày nọ, gia nhân bất ngờ phát giác cô con gái trong nhà có thai mà không biết cha đứa trẻ là ai. Bị người nhà đánh đập dọa nạt, cô gái khai rằng tác giả bào thai là của Ngài Bạch Ẩn trên chùa. Gia đình cô gái vô cùng tức giận, lên chùa bắt Ngài Bạch Ẩn chịu trách nhiệm. Ngài nghe xong câu chuyện oan trái này, chỉ nói 2 chữ: “Thế à!”. Khi cô gái sinh con xong, liền mang tới bỏ trước chùa, Ngài Bạch Ẩn thấy tội nghiệp nên đem bé vào chùa chăm sóc tận tụy như một người mẹ chăm nom đứa con duy nhất. Lúc này, danh dự của Ngài đã bị tổn hại trước những lời phỉ nhổ, chửi mắng, Ngài chỉ thốt ra chữ: “Thế à!”
Ba năm sau, cô gái đó hối hận khai thật với cha mẹ và nói đây không phải là con của Thiền sư Bạch Ẩn mà là con của người tình đi lính chưa về. Cha Mẹ cô nghe vậy lên chùa sám hối nói sự thật và xin Thiền sư Bạch Ẩn mang đứa bé đó về nuôi, Ngài chỉ đáp "thế à!" không giận hờn, không buồn phiền, rồi trao lại đứa bé cho gia đình cô gái.
Ngài Bạch Ẩn cũng nổi tiếng trong một câu chuyện khác đó là “ Mướn người niệm Phật”. Ngài có một ông đệ tử trung niên lên chùa Ngài tâm sự: cha của con năm nay cũng tới tuổi thất thập cổ lai hi rồi, con khuyên người nên niệm Phật, tu tập lo về phần tâm linh trước khi về trển nhưng cha con là người ham tiền, Cha con nói nếu mà làm cái gì để té tiền, té bạc ra thì nói chuyện với ta, chứ còn nói cái chuyện tâm linh thì đừng có tới ta mà nói chuyện. Ngài nghe như vậy mới khuyên đệ tử: “Không sao, chiều nay con về bảo với cha con rằng: Sư Phụ của con là Hòa thượng Bạch Ẩn bận bịu công việc quá đỗi nên không thể tu hành như ý muốn được. Ngài nhờ con tìm một người tu mướn. Cứ mười chuỗi niệm Phật là một quan tiền. Cần chọn người tuổi cao như cha. Người làm mướn có thể lãnh tiền mỗi ngày hoặc hàng tuần cũng được”.
Người đệ tử theo lời Sư Phụ về thưa với cha mình. Nhận thấy rằng đây là một công việc làm ăn té tiền té bạc hẳn hoi, ông lão sốt sắng nhận lời. Thêm vào đó, ngoài mười xâu chuỗi niệm Phật ăn tiền, ông còn hoan hỷ khuyến mãi biếu không cho Hòa thượng hai xâu nữa. Giao kèo xong, sáng hôm sau, ăn sáng xong, tắm rửa, mặc áo tràng, thắp hương, rót nước, đánh chuông, lễ Phật, bắt đầu ngồi trước bàn Phật niệm chuỗi đầu tiên rất là khó khăn, ngồi niệm Phật mà cái đầu nghĩ về tiền, niệm không ra chuỗi đầu tiên được, ông hết sức cố gắng vì điều kiện của Thiền sư Bạch Ẩn là niệm phải nhập tâm. Cột tâm mình vào trong xâu chuỗi. Ông cụ rất thành tâm làm theo lời của Thiền sư Bạch Ẩn niệm dù rất khó khăn nhưng cuối cùng cũng được, ông lên chùa nhận tiền cùa Thiền sư Bạch Ẩn, rồi ngày thứ hai, thứ ba, ông lên chùa nói ngoài mười xâu đó còn niệm cho HT thêm hai xâu không lấy tiền. Một tuần lễ sau ông già niệm một trăm xâu được mười quan tiền ông rất thích. Bẵng đi mấy tuần ông già không lên chùa nhận tiền, HT hỏi người con trai mới biết cha người ấy giờ ngồi trước bàn Phật không cần lần chuỗi nữa mà niệm không ra tiếng, mặc trì thôi chứ không cao thanh trì nữa, nên người con lo sợ mới thỉnh Sư phụ về để xem. Thiền Sư Bạch Ẩn nhận lời đến nhà thì thấy ông già ngồi trước bàn Phật niệm Phật mà hơi thở cũng nhẹ nhàng. Thiền sư nói với người con: "Cha con đã đạt tới nhất tâm bất loạn của pháp môn Tịnh Độ rồi, chúc mừng đệ tử”.
Khi ông già niệm xong rồi, HT mời ông già ra và hỏi: "Tại sao mấy tuần nay ông cụ không tới chùa nhận tiền?". Ông già liền chắp tay sám hối với HT Bạch Ẩn: "Bạch Ngài, con xin sám hối với Ngài, tất cả tiền con nhận trước đây, nay con xin gởi trả lại cho Ngài, con xin cúng dường lại hết, bởi vì con biết Ngài dùng phương tiện để khuyến dẫn con tu tập".
Như vậy, gần 1000 năm sau (tính từ thời Đại Sư Thiếu Khang), Thiền sư Bạch Ẩn mướn người niệm Phật như Tổ Sư Thiếu Khang cho tiền trẻ em để khiến các em niệm Phật, đến khi các em quen rồi không cần cho tiền nữa, và trong làng Tân Định này đi đâu cũng nghe tiếng niệm Phật, nhờ phương tiện giáo hóa của Đại Sư Thiếu Khang.
Đoạn tiếp theo thấy cơ duyên đã có phần thuần thục, Đại Sư thành lập Tịnh Độ đạo tràng ở Ô Long Sơn, xây đàn tam cấp. Cứ đến ngày trai, thiện nam tín nữ đều họp nơi đó để niệm Phật, nghe Pháp. Thường thường số người tập họp có trên ba ngàn. Mỗi khi thăng tòa, Ngài chắp tay to tiếng niệm Phật thì đại chúng ở dưới đều xướng hòa theo: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT....Có lúc Đại Sư xưng một câu Phật hiệu, hội chúng thấy một Đức Phật từ miệng Ngài bay ra. Niệm đến mười câu, trăm, ngàn câu đều có mười, trăm, ngàn vị Phật bay ra, liên tiếp như xâu chuỗi. Đại Sư bảo: "Quí vị đã thấy được Phật, chắc chắn đều sẽ vãng sanh". Mọi người nghe nói đến đó đều có cảm niệm vui mừng, an ủi.
Đó là công hạnh niệm Phật của Đại Sư Thiếu Khang và khi Ngài niệm nhất tâm trong miệng của Ngài có một vị hóa Phật phát ra. Công hạnh của Ngài là khuyên người niệm Phật, chấp trì danh hiệu, tức là Liên Tông Ngũ Tổ Trung Hoa, công hạnh của Ngài có bấy nhiêu đó thôi.
Ngài khuyên người niệm Phật từ khi đến Tân Định cho tới Ô Long Sơn. Đi tới đâu Ngài cũng nhất nhất khuyên người niệm Phật.
Một lòng giữ niệm Di Đà,
Hồng danh sáu chữ thật là thanh cao
Năng trừ tám vạn trần lao
Người đời nên sớm hồi đầu mới hay
Khuyên ai nên chớ mê say.
Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an
Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan,
Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình
Niệm Phật mở trí cao minh,
Bao nhiêu hôn chướng chẳng sinh vào lòng.
Niệm Phật cứu đặng Tổ tông,
Khỏi nơi biển ái thoát vòng sông mê.
Niệm Phật thân tộc đề huề,
Một nhà sum họp chẳng hề ghét nhau,
Niệm Phật khỏi khổ khỏi đau,
Bao nhiêu bệnh tật mau mau hết liền,
Niệm Phật có phước, có duyên
Tấn tài, tấn lộc bình yên cửa nhà.
Niệm Phật trừ đặng tà ma,
Yêu tinh quỷ quái lánh xa ngàn trùng
Niệm Phật năng khử độc trùng,
Các loài ác thú hóa hung ra hiền.
Niệm Phật hết khùng hết điên,
Có gương trí tuệ, có đàng quang minh.
Niệm Phật khỏi sự bất bình,
Sự người chẳng nhớ, sự tình chẳng ưa.
Niệm Phật cứu số long đong.
No cơm ấm áo thung dung mãn đời.
Niệm Phật cảm động khắp nơi,
Ai ai cũng mến mọi người đều thương.
Niệm Phật sanh dạ hiền lương,
Từ bi thì có, bạo cường thì không.
Niệm Phật trời cũng thương lòng
Thường thường ủng hộ cả ngày lẫn đêm
Niệm Phật, thần cũng kính vì,
Thường hay trợ niệm trong khi đứng ngồi.
Niệm Phật lòng chẳng bồi hồi,
Như cây không gió, nhánh chồi chẳng rung.
Niệm Phật khỏi sự hãi hùng,
Gian tà đạo tặc sẽ không đến nhà
Niệm Phật giấc ngủ an hòa,
Chiêm bao không có, niệm tà đều không.
Niệm Phật oan trái trả xong,
Nợ trần kiếp trước hết mong khỏi đòi
Niệm Phật trăm việc xong xuôi
Dầu sanh, dầu tử cũng vui tấm lòng
Niệm Phật hết sự đèo bồng,
Chẳng ham tài lợi, bỏ vòng công danh
Niệm Phật uế nhiễm chẳng sanh
Cái gương tâm tánh như vành trăng thu
Niệm Phật lòng có sở cầu,
Muốn tu thời đặng dễ đâu sai lầm
Niệm Phật hườn được chơn tâm
Bao nhiêu nghiệp cảm tiêu trầm biển khơi
Niệm Phật chắc sống trọn đời
Khỏi vòng nước lửa, khỏi nơi hung tàn.
Niệm Phật thân thể bình an,
Khỏi vương ách nạn, chết oan trên đời
Niệm Phật bổ đức các nơi,
Phá tan địa ngục phá rời ma quân
Niệm Phật, Phật phóng hào quang
Các vị hóa Phật ngồi ngang trên đầu
Niệm Phật, Phật chẳng bỏ đâu
Niệm đâu Phật đó, phải cầu chi xa
Niệm Phật, Phật sẽ rước ta,
Tây Phương đã sẵn một tòa bông sen
Niệm Phật phải niệm cho chuyên
Thì bông sen ấy lần lần tốt tươi
Niệm Phật niệm niệm không rời,
Tinh thần đã sớm dạo chơi Liên Trì
Niệm Phật lơ láo ích chi,
Sen kia khô héo khó mà tốt tươi
Niệm Phật cần phải chí thành
Giữ cho thanh tịnh trong mình lục căn
Niệm Phật như nước với trăng
Nước trong trăng tỏ, nước nhăn trăng lờ
Niệm Phật có lắm huyền cơ
Miễn đừng đem dạ nghi ngờ là xong
Niệm Phật giữ một tấm lòng
Di Đà oai đức mênh mông biển trời,
Đức Phật biến hóa khắp nơi,
Thương người cứu vớt những người trầm luân
Chí tâm niệm Phật tinh cần,
Lâm chung hậu nhựt trọn phần vãng sanh.
Trên đó là bài khuyên người niệm Phật mà Phật Giáo Việt Nam của mình không biết vị nào soạn ra, chắc chắn là ảnh hưởng theo tư tưởng của Tổ sư Thiếu Khang.
Bài Sám Nguyện Niệm Phật này vào khóa tu cuối năm 2011, Thân mẫu của Thầy là Cụ bà Tâm Thái, Thầy mời từ Việt Nam qua để thăm Úc, Cụ bà đi dự khóa tu ở Adelaide, khóa tu kỳ thứ mười năm 2011, năm đó mẹ Thầy khoảng 80 tuổi, cụ bà đã lên trên chương trình văn nghệ ở cuối khóa tu, cầm micro đọc trọn bài này để cúng dường cho chư Tôn Đức và Phật tử, hơn năm trăm người nghe bài Khuyên Người Niệm Phật, tất cả đều rất ngạc nhiên, một bà già tám mươi tuổi mà thuộc lòng bài này. Nhớ lúc đệ tử Quảng Tịnh làm MC giới thiệu Cụ bà Tâm Thái, Mẫu thân của HT Tâm Phương và TT Nguyên Tạng diễn đọc bài Khuyên Người Niệm Phật. Thầy nghe cũng hết hồn, vì chưa bao giờ Thầy nghe Mẹ đọc bài này, Thầy rất lấy làm ngạc nhiên, sau chương trình đó sáng hôm sau là lễ bế mạc khóa tu học, Thầy trò ra phi trường Adelaide, lúc ngồi chờ máy bay, Thầy và quí Phật tử mời cụ bà Tâm Thái đọc thêm một lần nữa bài khấn nguyện. Sau đó Thầy nhờ phật tử Quảng Diệu Hoa và Diệu Hiếu con dâu của cô Đức Nghiêm, hai đệ tử đã nghe lại đoạn văn đó và ghi xuống để Thầy Post lên trang nhà Quảng Đức và tiếp đó là in bài này vào trong nghi thức sám hối định kỳ ở tu viện Quảng Đức, và bài này hiện bây giờ tụng trong mỗi kỳ sám hối ở tại tu viện Quảng Đức. Các vị vào trang Quảng Đức gõ vào Link cụ bà Tâm Thái sẽ tìm được bài sám nguyện Khuyên Người Niệm Phật, ảnh hưởng Đại Sư Thiếu Khang, Tổ thứ năm của Tịnh Độ.
Năm Trịnh Nguyên thứ hai mươi mốt vào tháng mười, Đại Sư họp hết hàng đạo tục đến dặn bảo rằng: "Các vị nên phát tâm chán lìa cõi Ta Bà ác trược, ưa thích miền Tịnh Độ an vui mà cố gắng tu hành tinh tấn. Giờ phút này ai thấy được quang minh của ta, kẻ ấy mới thật là hàng đệ tử". Nói xong, Ngài phóng vài tia sáng lạ đẹp dài, rồi ngồi yên lặng mà tịch. Đại chúng xây tháp cho Ngài ở Đài Nham, tôn hiệu là Đài Nham Pháp Sư.
Đó là trọn tiểu sử của Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ năm của Tông Tịnh Độ mà Hòa Thượng Thiền Tâm dịch Việt để mà phổ biến cho tới tận ngày hôm nay.
Cuộc đời của Đại Sư Thiếu Khang tiểu sử của Ngài thật ngắn nhưng đã để lại công hạnh KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT cho hàng đệ tử của chúng ta từ triều đại nhà Đường qua triều đại nhà Tống, triều đại nhà Nguyên, triều đại nhà Minh và triều đại nhà Thanh cho tới Trung Hoa Dân Quốc, cộng sản Trung quốc. Trải dài qua các triều đại, Pháp môn niệm Phật của Đại sư Thiếu Khang, pháp môn CHẤP TRÌ DANH HIỆU vẫn không bao giờ mất đó là công đức của Đại Sư Thiếu Khang rất tuyệt diệu.
Thầy xin ngừng ở đây và xin qua phần Phật pháp vấn đáp nếu có về Đại Sư Thiếu Khang. Nam Mô A Di Đà Phật.
MC Ngọc Sáng: Dạ thưa Thầy, con kính tri ân Thầy, trước khi bước vào câu hỏi thì chúng con kính mời Thầy dùng chút nước trà để thấm giọng. Mô Phật!
Kính thưa Đại chúng, vừa qua thì Thầy đã trình bày về hành trạng cũng như tư tưởng của Thiếu Khang Đại Sư, nếu như Đại chúng có điều chi chưa rõ kính mời quý vị trực tiếp với Thầy, vì những câu hỏi của quý vị cho chúng ta có cơ hội học hỏi thêm. Mô Phật, thưa Thầy để chờ đợi những bàn tay xinh xắn của quý Đại chúng thì con có một câu hỏi: bạch Thầy con nghe kể rằng khi Tổ đến Tân Định để hóa độ do thấy tỉnh này chưa biết niệm Phật là gì Ngài đã quyên tiền để dẫn dụ trẻ nhỏ niệm Phật, nếu trẻ nào niệm Phật được một câu thì Ngài liền thưởng cho một đồng tiền, sau hơn một năm không cần thưởng tiền nữa thì các trẻ cũng vẫn niệm và từ đó nam, nữ, già, trẻ hễ thấy Ngài đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Thầy sẽ thưởng bao nhiêu đô la Úc so với mức sống hiện nay? Chúng con xin Thầy chia sẻ về phương tiện này nếu như Thầy có thể. Mô Phật!
Thượng Tọa Giảng Sư: Cảm ơn MC Ngọc Sáng, hồi xưa một quan tiền chắc bây giờ trị giá mười đô quá, nếu đệ tử nào niệm được Thầy thưởng mười đô Úc. Lâu nay thì ở Úc cũng như ở Việt Nam không có phong trào niệm Phật mà cho tiền, vì tới thời của chúng mình Phật tử đã thuần thục rồi, rất là hạnh phúc, không cần phải mướn trả tiền nữa, ở trong chùa các em thiếu nhi Việt Nam hiện nay rất là giỏi, các em được các Huynh trưởng hướng dẫn niệm Phật, Ở đây có Ngọc Sáng, có anh Thị Thiện, có anh Minh Đạo, tức là các anh chị Huynh trưởng đầu đàn của gia đình Phật tử. Các em oanh vũ mặc đồng phục áo lam, rồi mỗi Chủ nhật, các em niệm Phật và tưởng nhớ Phật, rất tuyệt vời nên không cần phải lấy tiền ra để nhử mồi như trong thời của Đại Sư Thiếu Khang. Thời đại của chúng mình được hưởng phước duyên khuyên người niệm Phật nên không cần phải dùng phương tiện cho tiền như hồi xưa, Thầy nhớ lại Sư cô Như Lan ở chùa Minh Thiền Đồng Tháp, cô đi cứu trợ lên những vùng miền núi, tập trung mấy em lại để phát quà, trước khi phát quà Ni Sư hướng dẫn cho các em niệm Phật, các em niệm rất là hay, ai niệm Phật thì Ni Sư mới phát quà, nhưng trong đó có một em dứt khoát không niệm, không cần nhận quà mặc dù em rất là khổ, các em xếp hàng nhận quà, tới phiên em còn ba gói quà Ni Sư bảo, em mà chịu niệm thì Sư sẽ tặng em luôn ba món quà này luôn, em dứt khoát vẫn không niệm, Ni Sư móc trong túi ra còn một trăm ngàn, nếu mà bây giờ con chịu niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật thì Sư sẽ tặng cho con ba món quà và một trăm ngàn, (một trăm ngàn đối với em nghèo lớn lắm ví như một ngàn đô bên nước ngoài), lúc đó em cũng cắn răng em không niệm, mặc dù là sợ mất tiền và quà, cuối cùng em mới mở miệng ra "Nam Mô A Di Đà Phật đó!", như kiểu niệm cho có vậy. Ni Sư rất là mừng tặng ba món quà và một trăm ngàn, trong khi năm mươi em khác chỉ có một món quà thôi, mà cũng không có tiền nữa. Ni Sư mới nói rằng hoàn toàn không dễ khi gieo duyên với một người người cho họ niệm Phật. Một mảnh đất cằn cỗi mà để một hạt giống Phật xuống đó để cho nẩy mầm lên là cả một vấn đề, nhưng dù sao đi chăng nữa thì cuối cùng cũng thành công, ít nhất em cũng xưng được danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật một cách bất đắc dĩ như trả nợ quỷ thần.
MC Ngọc Sáng: Con kính tri ân câu chuyện của Thầy. Thưa Thầy, con đã thấy được bàn tay của Thị Hiện. Ngọc Sáng xin mời Thị Hiện Nguyễn Hữu Lộc.
Phật tử Thị Hiện Nguyễn Hữu Lộc: Lời đầu tiên con xin đảnh lễ và vấn an Thầy. Con có một phúc duyên là được đảnh lễ, cúng dường Thầy, hồi Thầy đến giảng pháp ở trại Thanh Thiếu Nhi ở bên Đức, chắc Thầy còn nhớ?
TTGS: Bên Đức ở đâu?
Phật tử Thị Hiện: (PTTH) Lúc đó Thầy đi với HT Phương Trượng Viên Giác tới trại Thanh Thiếu Niên, cách đây mười mấy năm rồi. Con cũng xin nhắc đến hồi nãy Thầy có nhắc đến gia đình Phật tử (GĐPT) thì chúng con cũng dùng phương pháp là khuyến khích mấy em tụng kinh niệm Phật trong GĐPT có thi, và có phát phần thưởng, đó là để khuyến khích dùng phương pháp thiện xảo cho thích hợp với hoàn cảnh và tuổi tác của mấy em. Bây giờ bước sang xã hội, con thấy là ngay cả quý Thầy giảng là thời bây giờ pháp môn Tịnh Độ được xiển dương khó, vì người ta chỉ muốn tin theo khoa học cơ khí, hiện đại này nọ, còn về vấn đề tu học thì rất là khó thuyết phục, tuy nhiên trong giới văn nghệ, con thấy họ dùng cách tụng kinh như hát vậy đó, ngay cả tụng Đại Bi và niệm Phật người ta đem âm nhạc áp dụng vào mà có khi cả triệu người vào Live họ cảm thấy thích thú với phương pháp này, con không biết có lợi ích hay không về mặt tu tập, văn nghệ thưởng thức? Cũng xin Thầy giảng giải cho chúng con về mặt này.
Thượng Tọa Giảng Sư: Nam Mô A Di Đà Phật, cảm ơn bác Thị Hiện, Bác có phải là đệ tử Ôn Như Điển không?
PTTH: Dạ đúng rồi
Thượng Tọa Giảng Sư: Vậy là tốt rồi, cùng huynh đệ với Thị Nguyện, Thị Chơn. HT Như Điển có một trăm đệ tử đầu tiên Ngài cho chữ Thị "Ấn Chơn Như Thị Đồng". Chữ Chơn rồi cho xuống chữ Thị.
"Phương tiện hữu đa môn" câu này trong kinh nói như vậy, tức là phương tiện đưa tới cứu cánh có nhiều cửa. Cửa đi vào Tịnh Độ có rất là nhiều. Cách mà Đại Sư Thiếu Khang là cho tiền để niệm Phật, bây giờ anh Thị Hiện nói các GĐPT trao phần thưởng, rồi các văn nghệ sĩ sáng kiến ra niệm Phật qua âm nhạc thì tất cả đều có phần lợi ích hết, tùy theo căn cơ, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo sở thích của mọi người, tất cả đều đưa tới mục đích là người ta thích niệm Phật. Gần đây bên Việt Nam có bài tán thán Đức Phật Di Đà của Ni sư Huệ ngạn, Thầy thấy bài này rất được ưa chuộng và nhiều Đạo tràng niệm Phật cũng xử dụng dùng bài này. Bài này Thầy nghĩ có khoảng năm năm rồi, nhưng mới được rộ thời gian gần đây là do các ca sĩ hát và phổ biến bài Tán Thán Đức Phật A Di Đà, bài hát như thế này: "Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần), về Tây Phương có A Di Đà, ở cõi này có Phật Thích Ca, Phật hai nước phát tâm là độ dân chúng từ Ta Bà về bên cõi A Di Đà…"
Điều này Thầy thấy rằng: niệm Phật qua âm nhạc đầu tiên là xuất từ đâu? – Từ Đạo tràng của Đại Sư Tinh Vân ở Phật Quang Sơn, cách đây ba mươi năm rồi, Đạo tràng Phật Quang Sơn này có ban đạo ca, HT Tinh Vân nổi tiếng vì Ngài chủ trương Nhân Gian Tịnh Độ, nghĩa là đem cõi giới Tịnh Độ về với cảnh giới Ta Bà, đem những kinh, những nhạc đi trình diễn. Ngài là người đột phá đưa nghi lễ Phật Giáo lên sân khấu trình diễn, không phải trình diễn trên cộng đồng người Hoa mà trình diễn trong cộng đồng người Mỹ, người Úc kết hợp với bên Trung Hoa Lục địa có Thiếu Lâm, họ cũng biểu diễn những show vào trong cộng đồng sắc tộc mà người Tây Phương họ rất là thích. Thầy thấy người đột phá là Đại Sư Tinh Vân.
Sau này bên đạo tràng của Hòa Thượng Tịnh Không cũng bắt đầu, nhưng cái người mà khởi phát là văn nghệ sĩ của Hòa Thượng Tinh Vân đưa tiếng niệm Phật qua âm nhạc dẫn đến gần với quần chúng hơn, cho nên điều này cũng rất tuyệt vời không có gì trở ngại hết.
MC Ngọc Sáng: A Di Đà Phật, con kính tri ân Thầy đã trả lời câu hỏi anh Thị Hiện, và xin cảm ơn huynh Thị Hiện đã cho một câu hỏi để Thầy giảng dạy thêm cho chúng ta được hiểu rõ. Qua sự trả lời của Thầy, không biết anh có hài lòng không ạ?
PTTH: A Di Đà Phật, con kính cảm ơn Thầy.
MC Ngọc Sáng: Cảm ơn anh, dạ thưa Thầy con có thêm một câu hỏi nữa, Thật ra vừa rồi qua hành trạng cũng như tư tưởng của Ngài Thiếu Khang Đại Sư thì có hai vấn đề, đó là vấn đề dẫn dụ dân chúng để mà niệm Phật và vấn đề thứ hai là trước khi Ngài ra đi, Ngài để lại những câu nói con xin được phép nhắc lại: Trước khi thị tịch thì Ngài họp hết tất cả đệ tử lại rồi dặn rằng: Với thế giới ác trược này, mọi người nên nhàm chán, với Cực Lạc Tịnh Độ kia thì nên hết lòng tinh tấn, giờ này ai thấy được quang minh của ta thời thật là đệ tử của ta, nói xong Ngài xòe tay phóng ra vài tia sáng dài rồi ngồi yên mà tịch. Bạch Thầy, xin Thầy chỉ cho chúng con các cách nhàm chán thế giới này một cách cụ thể mà vẫn không bị rơi vào bi quan hay yếm thế, con kính mời Thầy.
Thượng Tọa Giảng Sư: Cảm ơn chị Ngọc Sáng đặt câu hỏi này. Lời dạy của Thiếu Khang Đại Sư Ngài nhắc lại trong bốn mươi tám lời nguyện cửa Đức Phật A Di Đà: Mục tiêu của vãng sanh Tịnh Độ là phải thân niệm Tịnh Độ và yểm ly Ta Bà. Yểm ly Ta Bà nghĩa là chán lìa cõi giới Ta Bà ác trược mà không nguyện ham thích, gần gũi với cõi giới Cực Lạc, đó là mục tiêu chung của tất cả những người đệ tử Phật.
Mình đang sống ở cõi giới Ta Bà, nhưng mà bây giờ ở trong kinh các Tổ bảo mình phải chán lìa cõi giới Ta Bà này để sớm về cõi giới Cực Lạc thì vô hình chung giống như là mình xúi dục đưa con người vào cái chỗ yếm thế, bi quan phải không? Mình còn ăn, còn mặc, còn ở mà bây giờ bảo mình phải xa lìa sớm sớm để mà mau mau về trển thì còn cái gì nữa, điều này làm cho chúng ta suy nghĩ. Đạo Phật có phải là quá bi quan hay không? Nếu mình căn cứ trên chữ nghĩa thì rất hiểu lầm lời của Tổ, của Phật. Ý của Ngài là tất cả chúng sanh không đắm nhiễm trong mọi trạng thái của đời sống này, vì không phải mình nhàm chán, mình xa lìa, mình mau giết cái thân ngũ uẩn này để mà vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, mà mình phải yểm ly ngay trong tư tưởng, ngay trong lời nói và hành động, mình không dính mắc bất cứ lời nói, ý tưởng, vì mình còn dính mắc là mình còn phiền não, mình còn đắm nhiễm là mình còn khổ đau. Bây giờ mình đang sống. Mình đang làm việc phải thong dong nhẹ nhàng như Kinh Pháp Cú số 93 dạy:
"Tự tại trong hành xứ
Không, vô tướng, giải thoát
Như chim giữa hư không
Tìm dấu chân không thấy".
Đó là trạng thái tu tập của người đệ tử Phật, dù tu Thiền hay Tịnh Độ cũng phải có cái đó, dứt khoát không đắm nhiễm, dứt khoát không dính mắc, còn dính mắc là còn khổ đau. Mình tự tại ngay trong đời sống này thì cái ngày cuối không cần ai phải tới để mà gõ mõ, đánh chuông để hộ trì mình hết. Bởi vì mình vãng sanh ngay trong giờ phút hiện tại rồi, chứ không cần phải giờ phút cuối mình mới đi vãng sanh.
Lần trước Thầy đã nói về Tịnh Độ Hiện Tiền: Vãng sanh tức là đi qua trong từng sát na chứ không phải đi qua trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình. Người tu Tịnh Độ phải thấy mình vãng sanh trong từng sát na một. Theo Trí Độ Luận thì, một sát na là có một triệu chín trăm bảy mươi hai lần sanh diệt. Trong đời sống hàng ngày của chúng mình, mình đã thấy được nhiều rồi. Vãng sanh không ở cuối đoạn đường, nói theo Thiền Sư Nhất Hạnh "Hạnh phúc không phải ở cuối con đường mà hạnh phúc ở ngay trong bước chân mình". Thói thường người ta đi tìm hạnh phúc ở cuối con đường, hạnh phúc ở ngay trên con đường đi. Vãng sanh Cực Lạc Đức Phật A Di Đà không phải ngay khi mà chúng ta tắt thở mà Vãng sanh Cực Lạc Đức Phật A Di Đà ngay khi chúng ta còn thở đây, chúng ta đang bước đi những bước lên cõi Cực Lạc Đức A Di Đà ngay khi chúng ta còn thở, chúng ta yểm ly trong đời sống này chứ không phải đợi tới phút chót rồi mới chán lìa.
Mục tiêu mà Đại Sư Thiếu Khang muốn gửi gấm cho chúng ta là chúng ta phải chán lìa ngay trong đời sống, ngay trong ý tưởng. Tại vì ngay trong ý tưởng mình, chúng ta còn dính mắc, chúng ta còn hơn thua, chúng ta còn phiền não thì không thể nào sau khi chúng ta tắt thở rồi chúng ta đi vãng sanh được. Chúng ta tập vãng sanh ngay trong giờ phút hiện tại này, Các vị làm được không? Rất là khó phải không? Nhưng chúng ta nên tập như Nhị Tổ Thiện Đạo, Ngài dạy rằng: người mà tu Tịnh Độ đừng sợ chết, vì thường bản chất của con người chúng ta rất là sợ chết, mà phải nghĩ đến cái chết, cái chết đến trong từng sát na, từng ý tưởng, từng lời nói. Nghĩa là mình tận diệt tất cả những cái phiền não, những cái khổ đau, những cái hờn giận, những cái hơn thua, những cái ganh tị ở trong mỗi đời sống. Cái đó là những cái chết mà chúng ta cần có để mà chúng ta gần cõi Cực Lạc Đức A Di Đà.
Đại Sư Thiếu Khang đi theo con đường của Nhị Tổ Thiện Đạo từ khi còn nhỏ cho tới khi lớn, Nhị Tổ Thiện Đạo, tư tưởng của Ngài là phủ trùm cuộc đời của Ngũ Tổ Thiếu Khang. A Di Đà Phật.
MC Ngọc Sáng: Con kính tri ân Thầy, vừa rồi Thầy đã giảng dạy cho con câu hỏi thứ hai. Thưa Thầy con có nhìn thấy câu hỏi của huynh Đức Trí và Diệu Như đó là trong cuộc sống vì thân tình mình cho người mượn tiền, khi mình cần đòi hoài không trả thì làm sao tự tại? Dạ Mô Phật, con kính mong Thầy giảng nghĩa hoặc chia sẻ cho con câu hỏi này cho Phật tử Đức Trí, Diệu Như.
Thượng Tọa Giảng Sư: Rất là khó khăn há, cho mượn tiền mà bây giờ đòi không được thì làm sao tự tại được? Cái này, bây giờ mình nhờ luật sư đòi dùm cho mình với, nếu bên Việt Nam thì nhờ xã hội đen họ đòi cho mình được, chứ mình không có khả năng để đòi, rất là khổ. Theo Thầy: nếu mà có tiền nhắm được thì cho luôn bằng không thì thôi chứ đừng cho mượn, bởi vì mình cho mượn chỉ là tự rước phiền não vô cho mình thôi. Hoặc nghĩ là phát đại tâm bố thí bất đắc dĩ, mình cho đi cho lòng mình nó nhẹ. Tiền tài như phấn thổ, và nghĩa tợ như thiên kim. Vì mình còn khả năng trong đời sống này thì thôi, "của xài thì hết, của cho thì còn"
Ai ơi cố gắng làm lành,
Kiếp này không hưởng để dành kiếp sau
Cho mượn người ta không trả thì để dành kiếp sau cho rồi, không có mất gì đâu.
Nếu nó là của mình thì nó sẽ trở về với mình thôi, nghĩ như vậy thì mình tự tại không phải bận tâm. A Di Đà Phật.
MC Ngọc Sáng: Thỉnh thoảng con cũng gặp những trường hợp như vậy thì con cứ nghĩ đến hai chữ nhân quả, đó là có lẽ kiếp trước con đã vay của họ, bây giờ con trả trở lại để cho cái tâm con nó được an hơn một chút, con không biết là Phật tử Đức Trí có nghĩ đến việc này không? Nếu được thì tâm mình sẽ tự tại được một chút.
Thượng Tọa Giảng Sư: Ông bà Đức Trí, Diệu Như là chắc OK chứ không có gì trở ngại hết. Thầy biết ông bà mà.
MC Ngọc Sáng: Dạ thưa, không biết là Phật tử Đức Trí và Diệu Như có đồng ý vừa rồi cách trả lời của Thầy không ạ? Mô Phật. Xin cảm ơn câu hỏi của Phật tử Đức Trí và Diệu Như. Dạ thưa Thầy, con thấy có bàn tay của huynh Thị Thiện. Xin mời huynh.
Phật tử Thị Thiện: Nam Mô A Di Đà Phật, bạch Thầy, trước tiên là con tri ân Thầy, thứ nữa là con có một câu hỏi như thế này: Trong chi hội Phật tử con có một cựu Gia trưởng của gia đình Phật tử chúng con, bác hiểu Phật pháp rất nhiều, nhưng mà bác không quy y dù có nói hoài, cho nên các Huynh trưởng trong ban hướng dẫn mới nói rằng: Vậy Bác không thể làm bác Gia trưởng được vì bác không quy y. Không biết Thầy có cách nào để giúp chúng con nói để bác quy y được không? Nam Mô A Di Đà Phật.
Thượng Tọa Giảng Sư: A Di Đà Phật, cảm ơn bác Thị Hiện hỏi dùm cho một bác Gia trưởng. Năm nay Bác bao nhiêu tuổi rồi?
PTTT: Dạ, tám chục
Thượng Tọa Giảng Sư: Tám mươi tuổi rồi mà chưa chịu quy y? Chắc đợi chín mươi tuổi à, chắc chắn bác này phải quy y thôi! Còn nếu không, cái ngày cuối ở trong bệnh viện HT Như Điển sẽ vào quy y cho bác.
Cuộc đời của Thầy làm việc mấy chục năm rồi, từ lúc Thầy thọ Tỳ Kheo năm 1988 cho tới nay 2024 là 36 năm rồi, Thầy quy y rất là nhiều người và trong đó có những nhân vật rất là cứng đầu nhưng rồi cuối cùng cũng phải quy y, bởi vì lúc đó đang ở trên giường bệnh rồi, nhưng mà vẫn còn có ý thức, còn có sự nhận biết. Bởi vì tới phút thứ tám mươi chín rồi mới hồi tâm, mới thỉnh Thầy vào ở trong bệnh viện nơi được chăm sóc đặc biệt, vô rồi sẽ không trở ra nữa, biết rằng mình không có cơ hội nữa nên thỉnh Thầy vào quy y thôi. Thầy mong là quý Phật tử không nên đợi tới giờ phút đó.
Không có lý do nào một người đệ tử, một người Huynh trưởng GĐPT sinh hoạt bao nhiêu năm mà không chịu quy y, nói chung là bác này chắc có ý tưởng riêng của bác; có một thời ở Việt Nam, một số vị chỉ phát tâm quy y Phật, phát tâm quy y pháp, chứ không phát tâm quy y Tăng. Ở đây, trường hợp bác này, có thể có một lần nào đó mà bác mất niềm tin nơi một vị Tăng, một vị Thầy hay mộ vị Sư cô nào đó chăng, cho nên bác thề với lòng con không bao giờ quy y. Quy y Phật, quy y Pháp thì được, nhưng quy y Tăng thì không. Nhưng sự hiểu biết của bác bị khiếm khuyết, chỉ là một chiều, vì Tăng ở đây phải hiểu là không phải một vị Tăng mà phải bốn vị trở lên mới gọi là Tăng. Một cá thể Thầy hay Sư cô không thể gọi là Tăng mà phải là bốn vị trở lên, không lẽ bốn vị này tất cả làm cho bác mất niềm tin hay sao? điều này chỉ có bác trả lời thôi, chứ không ai trả lời được và không quy y cũng là một loại phiền não là nghi. (tham, sân, si, mạng, nghi, ác kiến), trong sáu phiền não căn bản này bác dính phiền não thứ năm là nghi. Hoài nghi Phật, không biết Phật có đắc quả hay không? Hoài nghi về giáo pháp, không biết cái pháp này Phật có nói hay không? Vì giáo lý tứ đế, giáo lý bát chánh đạo, giáo lý duyên sinh, giáo lý nhân quả không biết Phật có nói điều này không mà mấy ông thầy này cứ nói đi nói lại hoài? Hoài nghi về Tăng, không biết ông Tăng này có được thanh tịnh hay không, có được thọ đại giới hay không? vì bây giờ có nhiều vị mà ở trên mạng người ta nói là xàm Tăng. Xàm Tăng không có thọ giới, không có giáo pháp gì hết chỉ khoác cái áo vàng lên rồi làm thầy thôi chứ không từng thọ giới. Chiếc áo không làm nên thầy tu. Bên VN bây giờ có nhiều người bị xem là trộm Tăng tướng, nghĩa là ăn cắp hình tướng của vị Tăng để làm thầy chứ không phải là một vị Tăng thật sự. thứ tư là hồ nghi về thánh giới, tức là bốn cái nghi, Phật, Pháp, Tăng và Giới. Thầy mong bác suy nghĩ lại, Tăng không phải là một cá thể, một Tăng đoàn tối thiểu phải gồm bốn vị, hy vọng ngoài vị nào làm bác mất niềm tin còn ba vị khác nữa, bác sẽ tìm được và phát tâm quy y. Quy y Tam Bảo mới là con đường dẫn tới giác ngộ và giải thoát. Nếu không quy y, không có cơ may nào đi tới giác ngộ và giải thoát được. Một người chứng quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán phải một Phật tử đã quy y Tam Bảo. Tóm lại quy y Tam Bảo là quyết định hướng đi cho đời mình, giúp cho mình cho mình có một nội lực thâm hậu, giữ vững lập trường, bỏ ác làm lành, quyết một lòng vượt qua sông mê để lên bờ giải thoát.
MC Ngọc Sáng: Mô Phật, con kính tri ân Thầy và cảm ơn câu hỏi của huynh Thị Thiện. Thưa Thầy con vừa thấy cô chú Đức Trí và Diệu Như có thêm câu hỏi, mong Thầy giải thích luôn cho chúng con: Kính Thầy, con có một câu hỏi nữa, con từng đem tiền cho người nhà tại VN tụng chú Đại Bi, tiền càng tăng lên thế mà không ai chịu tụng vậy phải làm sao ạ? Con không hiểu có đúng ý của cô chú Đức Trí, Diệu Như không, nhưng theo con hiểu là giống như Ngài Tổ sư đem tiền để tụng chú Đại bi, nhưng mà tiền càng lên nhưng không có người tụng.
Thượng Tọa Giảng Sư: Mời cô Diệu Như lên đi, nói dễ hơn.
Phật tử Diệu Như: Kính Thầy, qua câu chuyện Thầy vưa giảng đó, Đại Sư Thiếu Khang dùng tiền để mà dụ trẻ tụng kinh, con đã từng làm điều này đối với bà con ở Việt Nam. Con nói là nếu ai tụng thuộc được chú Đại Bi thì con tặng cho một số tiền gì đó, rồi thấy không ai tụng được con tăng gấp đôi, cuối cùng cũng không ai tụng hết, như vậy thì do mình không có phước duyên hay chính người đó không có phước duyên ạ?
Thượng Tọa Giảng Sư: Tán thán công đức của ông bà Diệu Như, Đức Trí ở Thụy Sỹ. Bác Đức Trí năm nay tám mươi tám tuổi, Thầy cầu chúc bác sống một trăm hai mươi tuổi như là Thiền sư Hư Vân.
Thầy xin trả lời câu hỏi: Đây là cái nghiệp của mỗi người thôi, mặc dù cũng ham tiền nhưng mà khả năng không có, phải đành chịu thôi, không có đủ duyên, không có đủ phước cho nên đâu có dễ mà thuộc chú Đại Bi.
Bài Đại Bi và bài Bát Nhã là hai bản kinh rất gần gũi với người Phật tử bên Bắc tông. Người Phật tử bên Bắc Tông ít nhất phải thuộc Đại Bi và Bát Nhã. Mở đầu bài kinh là phải tụng Đai Bi, và cuối bài kinh là phải tụng Bát Nhã, tóm thâu tất cả những giáo nghĩa Đại thừa và Tiểu thừa ở trong bản kinh đó, nhưng mà Phật tử nhà mình thuộc lam nham, mùng một một câu, ba mươi một câu rất là tội. Đệ tử Diệu Như phát đại Bồ đề tâm là tặng tiền để khuyến tấn cho người ta tụng, đọc thuộc nhưng không đủ duyên, đủ phước.
Ở trong kinh Tiểu Bản Di Đà Đức Phật nói rằng, một người mà vãng sanh về cõi giới Cực Lạc phải đủ ba yếu tố: thứ nhất là thiện căn, thứ hai là phước đức, thứ ba là nhân duyên. Người không có thiện căn người không thể nào mà học kinh được hết, tại vì căn lành không có.
Nhiều người đệ tử Phật đi chùa nhiều năm nhưng bài kinh nhỏ cũng không thuộc, học trước quên sau vì thiện căn, phước đức, nhân duyên đều không có nên bây giờ mình phải cố gắng phát tâm tu tập trong kiếp sống này, chứ không nên chờ nữa.
MC Ngọc Sáng: Mô Phật, con kính tri ân Thầy đã chia sẻ câu hỏi của hai bác vừa qua. Thưa Thầy, con cảm thấy là hiện tại giờ của chúng ta đã sắp cận kề và con cũng không thấy câu hỏi nào tiếp.
Thưa Thầy vào cuối buổi giảng ban truyền bá chúng con có một món quà tinh thần để đúc kết lại buổi giảng vừa qua, qua những câu thơ dâng tặng cho Giảng sư và hôm nay ban truyền bá chúng con cũng không ngoại lệ, bây giờ Ngọc Sáng xin mời huynh Minh Đạo
PT Minh Đạo: Con kính đảnh lễ Thầy, hôm nay con kính tặng Thầy và mời quý Phật tử cùng nghe bài thơ Thất ngôn:
Ngũ Tổ Liên Tông hiệu Thiếu Khang
Tiên Đô nguyên quán Tấn Vân làng
Ấu thơ cha mẹ luôn lo lắng
Lên bảy tuổi mà chưa nói năng
Mẹ dắt đến chùa dâng lễ Phật
Và nhìn Tôn tượng hỏi đùa rằng
Bỗng nhiên cất tiếng "Thế Tôn Phật"
Linh mẫn duyên lành hảo thiện căn
Ngài được xuất gia cầu Phật đạo
Suốt thời niên thiếu rất tinh cần
Thuộc thông năm bộ kinh căn bản
Đại trí xuất trần bậc Thánh Tăng
Cảm ứng Đạo giao cùng Nhị Tổ
Tây Phương hóa đạo phát hào quang
Hữu duyên Tịnh Độ nguyền kiên định
Phổ độ chúng sanh lập Đạo tràng
Niệm Phật trả tiền hành pháp thí
Chân thường huân tập niệm thanh nhàn
Nhất tâm bất loạn an ba nghiệp
Tịnh Độ hiện tiền giữa thế gian
Kiên trì khai thác ba ngôi báu
Mở cửa vô minh trí sáng ngần
Lục tự Di Đà tu giới định
Vãng sanh trí dũng đoạn tham sân
Niệm Phật hôm nay chẳng được tiền
Được ba ngôi báu đặng bình yên
Từ bi trí tuệ làm gia sản
Diệu dược ngày đêm trị lậu phiền
A Di Đà Phật
Thượng Tọa Giảng Sư:
Cảm ơn anh Minh Đạo, bài thơ quá hay, thầy thích hai câu trong bài thơ này:
Nhất tâm Tịnh Độ an ba nghiệp
Tịnh Độ hiện tiền giữa thế gian.
MC Ngọc Sáng: Mô Phật, xin cảm ơn huynh Minh Đạo, kính thưa đại chúng, trong thời gian qua gần hai tiếng đồng hồ với chủ đề pháp thoại hành trạng và tư tưởng Thiếu Khang Đại Sư, chúng ta đã lắng nghe sự chia sẻ của TT Thích Nguyên Tạng và chắc chắn rằng chúng ta đã nhận được rất nhiều kiến thức thiết thực và hiểu biết hành trạng cũng như tư tưởng của Ngũ Tổ, khi chúng ta học và hành từ chánh pháp của Đức Phật làm cho cuộc sống chúng ta được an vui và hạnh phúc hơn. Thay mặt ban truyền bá chúng con kính niệm ân Thượng Tọa, dù sức khỏe của Thầy chưa hoàn toàn bình phục, nhưng Thầy vẫn dành thời gian đến với ban truyền bá chúng con chia sẻ kiến thức Phật pháp thật là quý báu. Chúng con luôn mong mỏi Thượng Tọa thường đến với ban truyền bá chúng con để cho chúng con nhận được những bài pháp hữu ích trong cuộc sống, và buổi pháp thoại đến đây chúng con xin được tạm dừng, chúng con kính tri ân sự quan tâm và chứng minh của Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni, trước đạo tình cao cả của quý Ngài, chúng con kính nguyện cầu chư Tôn Đức Tăng Ni pháp thể khinh an, cửu trụ Ta Bà để làm bóng cây đại thọ cho hàng hậu học chúng con nương nhờ đức độ, tiến tu trên con đường giải thoát. Xin chân thành ghi nhận công đức của quý Phật tử khắp năm châu đã tham dự, cũng như ban biên tập, ban kỹ thuật đã hỗ trợ cho buổi pháp thoại hôm nay được thành tựu viên mãn. Kính chúc Đại chúng ngày an lành, đêm an lành, sáu thời thường an lành. Và nhân tiện đây chúng con kính mời chư Tôn Đức Tăng Ni và Đại chúng đến với ban truyền bá chúng con vào thời pháp thoại kế tiếp thứ Năm ngày 26/9/2024 cũng vào lúc 20 giờ với chủ đề: Tu Tập theo Vô Lượng Thọ Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Kinh qua sự trình bày của TT Thích Hạnh Hòa. Con xin kính Thầy sức khỏe luôn dồi dào và mong Thầy giữ gìn sức khỏe tiếp tục đến với chúng con.
Thượng Tọa Giảng Sư: Cảm ơn MC Ngọc Sáng: đúc kết và lời cảm tạ rất là hay, rất là bài bản, cảm ơn nhà thơ Minh Đạo lúc nào cũng xuất khẩu thành thơ sau thời giảng pháp rất là tuyệt vời. Trang thơ của nhà thơ Minh Đạo trên trang Quảng Đức, loạt bài về Tịnh Độ tông rất là nhiều Phật tử vào xem. Cảm ơn Phật tử (PT) hiện diện, cảm ơn thông tín viên Huệ Hương trang nhà Quảng Đức là một dược sĩ của Úc Châu, cảm ơn MC Huệ Sơn, cảm ơn đệ tử Thành Mỹ, PT Đồng Trinh, Diệu Nguyệt, Quảng Tịnh, Lan Phạm Diệu Phước, Đức Trí, Diệu Như, PT Diệu Danh ở bên Đức, PT Quảng Thiện Mỹ ở Thụy Sỹ, PT Kim Chi, Phật tử Minh Phát, PT Thiện Tâm, PT Thiện Vũ, PT Thiện Thành, PT Đồng Trị, PT Thiện Mỹ.
Kỳ rồi Thầy thấy danh sách MC hôm nay là Thiện Mỹ chứ đâu phải Ngọc Sáng. Giảng sư bệnh rồi chắc MC cũng bệnh theo hay sao mà thay đổi luôn?
MC Ngọc Sáng: Đúng ra là hôm nay là buổi giảng của TT Thích Phổ Huân, con làm MC cho Thầy Thích Phổ Huân, nhưng mà vì Thầy bệnh nên có sự thay đổi cho nên con vẫn giữ ngày hôm nay. Con thật sự xin sám hối, vừa rồi con có một sự thiếu sót. Con kính thỉnh Thầy hướng dẫn cho chúng con hồi hướng cho buổi lễ hôm nay được viên mãn hơn.
Thượng Tọa Giảng Sư: Cảm ơn chị Ngọc Sáng, cảm ơn chú đệ tử Diệu Phước, Tâm Quang ở Brisbane làm một bài thơ về Ngài Thiếu Khang, PT Diệu Đắc ở Melbourne. Cảm ơn Quý Phật tử vào nghe giảng buổi sáng hôm nay. Mời Đại chúng chắp tay hồi hướng để kết thúc buổi pháp thoại hôm nay.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo
MC Ngọc Sáng: Chúng con kính tri ân Thầy
Thượng Tọa Giảng Sư: Cảm ơn quý Phật tử, chúc quý Phật tử ngày an lành, đêm an lành.
Phật tử Diệu Danh kính phiên tả.
🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
- 🌹Thiếu Khang Liên Tông Ngũ Tổ (thơ)
- 🌹Khuyên Người Niệm Phật (thơ)