Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng Dương Thi Tập (Quyển 3)

22/12/202112:40(Xem: 7542)
Hướng Dương Thi Tập (Quyển 3)


2_Huong Duong Thi Tap 3_Thich Phuoc Thai
 
Hướng Dương Thi Tập

 Quyển 3 

 


Lời Đầu Tập

 

Từ xưa, thi ca là nguồn cảm hứng của bao văn nhân thi sĩ. Xúc cảnh sanh thơ, phơi bày những tâm sự, gởi gắm tất cả những tâm tình rạt rào chứa đựng những bi thiết, những hoạt cảnh của những xã hội đương thời mà tác giả hiện sống.

 

Những cảm tác ấy, dệt thành đủ màu sắc hương vị. Nó xuất phát từ những tâm hồn cao thượng tự chứng, hay những tâm hồn bình thường mang nặng mặc cảm tự tôn, tự ty, hoặc bất mãn theo từng nếp nghĩ. Tất cả, đều tùy theo quan điểm của mỗi thi nhân. Song cho dù diễn tả dưới bất cứ dạng thức nào chăng nữa, tựu trung, cũng nhằm nói lên chiều hướng xây dựng xã hội, làm đẹp con người và cuộc đời.  Mọi sắc thái hiện tượng của vũ trụ như: mây, nước, trăng, sao, núi non, chim kêu, suối chảy v.v…đều là những gợi cảnh nồng nàn mà thi nhân đã gởi lòng hòa điệu.

 

Cảnh và tâm, tâm và cảnh từ xưa đã là một sự liên quan mật thiết bất khả phân ly. Sự sống là một đúc kết bởi hai hiện trạng thiết yếu: vật chất và tinh thần. Sự kết hợp ấy, có từ khi con người xuất hiện trên quả địa cầu này. Chính vì sự liên hệ chằng chịt ấy, mà con người không thể tự thoát mình ra được theo lý duyên khởi hình thành. Nói lên hiện trạng của chính mình, tức nói lên hiện trạng của mọi người. Có khác chăng, chỉ là theo từng hoàn cảnh và sự sinh hoạt của mỗi thời đại mà thôi.

 

Nguồn cảm hứng đối cảnh sanh lời ấy, được tác thành bằng những nhạc điệu mỹ cảm rung động của những con tim lành mạnh và được nhịp nhàng bởi một thứ trí tuệ kiểm chứng. Những vần thơ siêu thoát chỉ có, khi nào con người đã trải nghiệm một thời gian rèn tâm nội chứng. Những vần thơ ấy, ta thấy rất rõ trong những tác phẩm thi ca thiền học chẳng hạn.

 

Ngoài ra, còn biết bao văn thơ mà có thể thi nhân không phải là người xuất thân từ một lãnh vực của một tôn giáo nào cả. Những nguồn thơ ấy, đã hài hòa với vũ trụ mà ở đó cũng chính là con người. Thơ đã nhịp nhàng điệu sống, tự nó đã có một tác dụng sâu kín truyền thông thẳng mạnh vào con người. Một sự tác động mãnh liệt nhằm đánh thức con người sống dậy vươn lên trong tỉnh táo và rồi để hòa nhập vào đại thể. Ở đó, không còn là gì cả và lời thơ cũng tự biến mất. Đối tượng diễn tả và chủ thể diễn tả sẽ không còn phân chia tách biệt. Đến đó, là nguồn thơ đã lột hết mọi võ chấp cứng của con người. Chính đó mới quả thật là một nền văn hóa siêu đẳng mà bao thi nhân nhằm thực hiện và cung ứng hoán cải.

 

Đó là một công trình đóng góp rất lớn lao cho nền văn hóa nhơn loại; một kỳ công kiệt tác mà tất cả những tác phẩm mang đủ các loại màu sắc bằng những lối hình thức diễn tả đều nhằm mục đích đại đồng ấy.

 

Cũng chính vì điều đó, mà ta thấy các nhà đại thi hào trên thế giới đã gặp nhau – Sự hội ngộ không cần phải có sự hứa hẹn nào trước – mà mỗi người chỉ cần xoay lại chính mình để tự triển khai và sống thực với mình thì tất cả sẽ gặp nhau.

 

Riêng ở nước Việt Nam ta, từ thời xa xưa cũng đã có biết bao thi nhân cả đời lẫn đạo đều dệt nên bao tác phẩm sống động linh cảm thiết thật đã được truyền thông qua muôn ngàn thế hệ. Đó là một sự góp mặt phục vụ cho nền văn hóa nước ta nói riêng và cho nhơn loại nói chung rất là phong phú, đa dạng, thực tiễn trong chiều hướng xây dựng xã hội và con người.

 

Thưởng thức một câu thơ hay một bài thơ, bài văn, mà tâm hồn ta bất chợt rung động theo nhịp điệu mỹ cảm của thơ, chính lúc ấy là ta đã gặp lại tác giả và niềm cảm thông giữa ta và tác giả đã có một quan điểm; một tâm trạng thấu triệt rõ rệt.

 

Có đôi khi đọc một vần thơ siêu thoát, tâm hồn ta bỗng bừng sáng tỉnh táo hơn lên, thì chính lúc ấy là tâm ta đã chín đến mức độ của tác giả – vì tác giả đã giúp cho ta một nguồn khai sáng nội tại – mà trước tiên tác giả đã tự khai sáng đến độ sống thực của nó.

 

Đọc thơ, thưởng thức hương vị ngọt ngào hoặc cay đắng của thơ, từ nội dung đến hình thức mà tác giả đã diễn tả – chỉ khi nào nhịp điệu của tâm hồn ta có đồng một cung bậc, đồng với tâm trạng hoàn cảnh của tác giả. Bấy giờ sự thưởng thức ấy, ta mới thật cảm thấy thú vị và có đôi khi ta xúc động đến rơi lệ hoặc giả là tràn đầy vui sướng. Tất cả đều tùy theo nội dung của câu thơ hoặc bài thơ ấy.

 

Theo chiều hướng đó, mặc dù tôi chưa phải là một nhà thơ, nhưng đứng trước mọi cảnh vật thiên nhiên, hoặc chứng kiến, tiếp cận hay thậm chí hòa mình trong sự sống, tôi cũng có một vài nỗi niềm xúc tác cảm hứng. Do sự cảm hứng đó, nên tôi cố gắng khiêm dệt một vài nét thơ để bày tỏ mua vui giải sầu xuyên qua những hoạt cảnh, những tâm trạng u ẩn, những xúc động tự nhiên, những cảm nghĩ vụng về, những tâm tình bi thiết. Tất cả đều được dệt thành bằng những vần thơ non nớt, chưa có được một kích thước đáng bậc là một thi nhân đúng nghĩa.

 

Về phần đóng góp tịnh tài hùng ấn tống tập 3 nầy, phần lớn là do quý liên hữu Phật tử trong hai đạo tràng: Phước Huệ và Quang Minh phát tâm hỷ cúng. Ngoài ra, cũng có một số quý Phật tử ở các nơi khác phát tâm cúng dường. Xin tất cả nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa của chúng tôi. Và chúng tôi cũng không quên thành kính tri ân nhị vị Đại Đức: Thích Phước Viên và Thích Phước Quảng đã tận tình giúp cho phần trình bày và in ấn. Chúng tôi chân thành nguyện cầu Phật lực gia hộ cho toàn thể quý ân nhân vạn sự an lành, sở cầu như ý.

 

Trong tập thơ nầy dĩ nhiên, nó còn nhiều khuyết điểm từ hình thức đến nội dung. Kính mong quý độc giả, các bậc thi nhân, quý vị thức giả có dịp ghé mắt xem qua, nếu thấy có điểm nào thiếu sót chưa được trang nhã lắm, thì xin quý vị cũng rộng tình thông cảm và chỉ giáo cho, tác giả xin hết lòng quý kính thâm ân và xin cảm niệm chân thành đa tạ.

 

 

Trân kính

Thích Phước Thái

 

 

 

 

Tân Xuân Kính Chúc

 

Xuân đến thành tâm chúc mọi người

An lành cuộc sống mãi vui tươi

Bao nhiêu phiền muộn theo năm cũ

 Niệm Phật chí thành dạ thảnh thơi

 

Xuân đến thành tâm chúc mọi nhà

Rộng lòng hỷ xả sống vị tha

Chấp chi gánh nặng thêm đau khổ

Buông xả thương nhau một chữ hòa

 

Xuân đến thành tâm chúc an lành

Bình an cuộc sống chẳng đua tranh

Giữ lòng yên tĩnh tâm thanh thản

Sớm kệ chiều kinh nhớ tu hành

 ( Xuân Canh Tý - 2020 )

 

       Trà Vinh

 

Trà Vinh niềm vui mới

Khúc nhạc mến quê hương

Xuôi ngược chỉ một đường

Tâm tư về muôn thuở

 

Trà Vinh trong cõi nhớ

Sông nước vẫn ngàn xưa

Đường về luôn hoa nở

Kênh rạch rợp bóng dừa

 

Trà Vinh về Duyên Hải

Ba Động nước trong xanh

Trúc Lâm lòng tươi mát

Vạn cảnh sống an lành

 

Trà Vinh Bà Om đó

Lịch sử nét đậm ghi

Về đây trời trong mát

Cảnh vật khó sánh bì

 

Trà Vinh quê hương tôi

Có nhiều ngôi chùa tháp

Trong lòng chín con rồng

Dòng sông nhiều bóng mát

 

Trà Vinh nơi tôi sanh

Lớn lên niềm mong ước

Nhớ mãi gốc cội nguồn

Chữ "Trà" theo vận nước

 

Trà Vinh tôi mến yêu

Như cô gái mỹ miều

Hoa ngàn xanh tươi mát

Ai thấy cũng yêu kiều

 

Trà Vinh luôn còn đó

Theo nhịp sống thăng trầm

Nay trên đà phát triển

Miền quê nhớ âm thầm

 

Khuyên Bỏ Rượu

 

Rượu uống ham chi phải khổ đời

Gặp nhau trà nước cũng vui tươi

Lúc đầu vào tiệc còn thân thiết

Khi đã say mèm nói chẳng thôi

Buổi tiệc chưa tàn gây ấu đả

Người ngồi tù tội kẻ xa chơi...!

Ai người ghiền rượu xin chừa bỏ

Cứu thoát đời mình khỏi khổ thôi

 

Liên Trì Cảm Tác

 

Liên Trì cảnh đổi bóng người xưa

Kinh kệ công phu sáng tối trưa

Phú quý công danh thôi chẳng đoái

An bần thủ đạo giữ tương dưa

Việc đời gát bỏ ngoài tai hết

Việc đạo tùy duyên chẳng ghét ưa

Thế sự tình đời sao nói hết

Phù du muôn việc gió đong đưa

 

Tình Quê

 

Gốc rạ ban mai thật đậm đà

Tình quê hương lúa ngắm trời xa

Đau thương bỏ lại niềm vui mới

Một thoáng đời người chóng đi qua!

 

Tôi đã về đây, cây đứng yên

Lặng nhìn bông lúa thật hữu duyên

Lúa vàng chín rộ đầy đồng hết

Vạn cảnh thanh bình sướng như Tiên

 

Mùa nầy gặt lúa ở đồng quê

Một năm ba vụ của nông nghề

Con sông nước chảy quanh năm tháng

Tiếng gió mang về khóc tỉ tê

 

Trên cầu thiếu nữ đứng nhìn ai

Một bác nông phu dáng mệt nhoài

Nước chảy qua cầu nhìn thấy bóng

Rõ ràng là một biến thành hai

 

Buông Bỏ

 

Nhìn ánh mắt của anh

Tôi biết anh có nhiều oán hận

Anh giận mình, anh hận cả thế gian

Vì không ai làm thỏa mãn được anh

Anh căm tức oán hờn trong tủi nhục

Lê kiếp sống của một con người ngã gục

Muốn gào lên cho thấu tận trời xanh

Cho kiếp sống đọa đày vơi đau khổ

Cuộc đời anh mang trong mình nhiều bom nổ

Vết thương lòng anh cứ vẫn đeo mang

Biết bao giờ anh mới hết thở than

Không oán trách nhiều bất công thù hận

Anh vấp ngã cuộc đời nhiều lận đận

Anh đứng lên trong đen tối đau thương

Bây giờ đây anh chỉ có một con đường

Anh buông bỏ mọi vấn vương trong tủi nhục

Anh nên biết nước trong không ngoài nước đục

Hạnh phúc kia không ngoài đau khổ cuộc đời

Anh hãy vươn lên với tâm hạnh sáng ngời

Anh sẽ thấy mặt trời đang có mặt

Tình nhơn loại anh càng thêm thắt chặt

Nghĩa đồng bào anh cảm thấy yêu thương

Tôi với anh đi muôn vạn nẻo đường

Về "bến giác" đau thương buông sạch hết

pdf-download

Hướng Dương Thi Tập 3_Thích Phước Thái


***

youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 9348)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10907)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3593)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5298)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3232)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10464)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3723)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14962)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3466)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 13308)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]