Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

151. Kinh Khất Thực Thanh Tịnh

19/05/202011:39(Xem: 10844)
151. Kinh Khất Thực Thanh Tịnh

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


151. Kinh KHẤT THỰC THANH TỊNH

( Pindapàtapàrisuddhi sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương-Xá – Ra-Chá-Ga-Ha  (1)

              Tinh Xá Vê-Lu-Vá-Na  (1)

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này, nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa).  (2)

 

              Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta   (3)

      (Hay Xá-Lợi-Phất cũng là ngài đây)

          Buổi chiều, ngài sau khi Thiền định

          Đứng dậy tính đi đến Thế Tôn,

              Khi đến, đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên ngồi xuống. Thế Tôn hỏi là :

 

    – “ Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Ta thấy

          Các căn ông hết thảy đều là

              Rất sáng suốt, còn sắc da

       Của ông thanh tịnh, thật là sáng trong.

          Xá-Lợi-Phất ! Nay ông an trú

    __________________________

 

(1) : Thành Vương-Xá  – Rajagaha. Vị Vua trị vì Bimbisara (Tần-

     Bà-Sa-La hay Bình Sa Vương) đã dâng cúng Đức Phật khu

    vườn trúc ngự uyển để kiến tạo thành Veluvanavihàra  – Trúc

    Lâm Tinh Xá.            (2) : Nơi nuôi sóc Kalandakanivapa.

(3) : Tôn-giả Sariputta  – Xá-Lợi-Phất hay Xá-Lợi-Tử, vị Đại-đệ-

    tử của Phật, thường được tôn xưng là vị “Tướng quân Chánh

    Pháp”.  


 

          Phần lớn với an trú loại nào ? ”.

 

        – “ Bạch Phật ! Con an trú vào

      ‘Không trú’, phần lớn trú sâu nơi này ”.

 

    – “ Thật lành thay ! Sa-Ri-Pút-Tá !

          Ông nay đã phần lớn trú an

              Sự an trú bậc Đại-nhân.

       Sự an trú bậc Đại nhân, tức là

         ‘Không tánh’(1). Mà Sa-Ri-Pút-Tá !

          Nếu Tỷ Kheo nào đã mong điều :

             ‘Mong rằng tôi nay phần nhiều

       An trú ‘không tánh’ sớm chiều trải qua’.

          Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Như vậy

          Tỷ Kheo ấy cần phải nghĩ là :

 

             ‘Trên đường ta đã đi qua

       Vào làng khất thực, hay là nơi ta

          Đến khất thực, hoặc là đường sá

          Khi ta đã khất thực trở về…

              Đối với các sắc mọi bề

       Do mắt nhận thức, có hề khởi ra

          Ở nơi ta dục, tham, sân giận,

          Có khởi lên si, hận tâm không ?’

 

              Này Xá-Lợi-Phất ! Nếu trong

       Tỷ Kheo ấy tư duy xong, biết là :  

         ‘Trên đường ta từ chùa xuất phát

          Để đi bát (khất thực) hằng ngày, 

              Tại địa phương khất thực này,

    ____________________________

 

(1) : Khái niệm Không – Suññatà bắt nguồn do từ Không – Suñña

      (Pali).    Còn Tánh Không – Sùnyatà (Sanskrit) được sử dụng

      rộng rãi trong kinh điển Đại thừa Phật-giáo.

 

       Sau khi khất thực, liền quay trở về,

          Trên con đường ta về trở lại…

          Với sắc do mắt ấy nhận ra

              Đã có khởi lên nơi ta

       Dục, tham, sân giận, si và hận tâm’.

          Tỷ Kheo ấy phải cần tinh tấn

          Để đoạn tận bất thiện pháp đây.

 

              Nhưng Sa-Ri-Pút-Tá này ! 

       Nếu Tỷ Kheo ấy như vầy nghĩ suy :

         ‘Trên đường ta đã đi khất thực,

          Tại địa phương khất thực trải qua,

              Sau khi khất thực, trở ra

       Trên con đường ấy để ta trở về.

          Với các sắc do về mắt đó 

          Nhận thức ra, không có khởi đi

              Dục, tham hay là sân, si,

       Hoặc hận tâm’. Này Sa-Ri-Pút-Tà !

          Tỷ Kheo ấy phải qua an trú

          Với hỷ. Vị Phích-Khú hân hoan

              Ngày đêm tu học đàng hoàng

       Trong các thiện pháp nghiêm trang hành trì.

 

          Lại nữa, này Sa-Ri-Pút-Tá !

          Vị Tỷ Kheo phải khá nghĩ suy :

             ‘Trên con đường ta đã đi

       Khất thực, nơi đó, đường đi trở về…

          Với các tiếng do nghe tai đấy,

          Các hương do mũi ấy nhận ra,

              Các vị do lưỡi nhận ra,

       Xúc do thân nhận thức ra, cùng là

          Các pháp do ý mà nhận thức…

          Có khởi lên các dục, tham, sân,

              Si hay hận tâm các phần ?

       Nếu có phát khởi, tinh cần diệt đi.

          Nếu nghĩ suy cặn kẻ, thấy rõ

          Ta không có, thì Tỷ Kheo này

              Phải an trú với hỷ đây

       Và hân hoan để hành ngay đêm ngày

          Các thiện pháp cho đầy đủ cả.

 

          Này Sa-Ri-Pút-Tá ! Còn như

              Tỷ Kheo cần phải suy tư :

      ‘Năm dục trưởng dưỡng ta trừ diệt chưa ?’  (1)

          Nếu nghĩ suy thấy chưa đoạn tận

          Tỷ Kheo phải tinh tấn diệt đi

              Năm dục trưởng dưỡng cấp kỳ.

 

       Nếu Tỷ Kheo ấy nghĩ suy, thấy rằng :

         ‘Đã diệt năm dục trưởng dưỡng’ đấy,

          Tỷ Kheo ấy phải an trú ngay

              Với hỷ, hân hoan đêm ngày

       Tu học các thiện pháp đầy tinh hoa.

 

          Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Rồi vị 

          Tỷ Kheo ấy suy nghĩ hơn thua :

             ‘Năm triền cái ta diệt chưa ?’ (2)

        Nếu nghĩ cặn kẻ, thấy chưa đoạn trừ,

           Phải tinh tấn đoạn trừ triền cái.

    ___________________________

 

(1) : Năm dục trưởng dưỡng : Các Dục vọng do mắt duyên với sắc,

    tai duyên với âm thanh, mũi duyên với hương, lưỡi duyên với vị,

    thân duyên với xúc… Các dục vọng đó nếu không ngăn chận thì

    cứ tăng trưởng mãi.

(2) : Năm triền cái : tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo

    hối (trạo cử) và nghi.

 

          Nhưng ngược lại, khi đã suy tư

              Thấy rằng ta đã đoạn trừ

       Cả năm triền cái, thời từ điều đây

          Tỷ Kheo này phải an trú hỷ,

          Hân hoan, tu học kỹ đêm ngày

              Trong các thiện pháp đủ đầy.

 

       Lại nữa, Xá-Lợi-Phất này ! Cũng như

          Tỷ Kheo cần suy tư đầy đủ :

         ‘Ta liễu tri năm thủ-uẩn chưa ?’

              Nếu suy nghĩ kỹ, thấy chưa

       Liễu tri năm thủ uẩn, chưa rõ ràng,

          Tỷ Kheo ấy phải càng tinh tấn

          Liễu tri năm thủ uẩn trải qua.

              Nhưng này Sa-Ri-Pút-Ta !

       Trong khi nghĩ kỹ, biết đà liễu tri

          Năm thủ uẩn. Vậy thì Phích-Khú

          Phải an trú với hỷ, hân hoan

              Ngày đêm tu học sẵn sang

       Trong các thiện pháp khó toan tư nghì.

 

          Lại nữa, này Sa-Ri-Pút-Tá !

          Tỷ Kheo đã suy nghĩ sớm trưa :

             ‘Ta tu bốn niệm xứ chưa ?  (1)

       Tu tập bốn chánh cần (1) vừa hay chưa ?

          Tu tập chưa bốn như ý túc ? (1)

          Năm cănnăm lực (1) tu chưa ?

              Bảy giác chi (1) tu tập chưa ?

       Tám ngành Thánh Đạo (1) thượng thừa tu chưa ? 

          Tu tập chưa Chỉ và Quán vậy ? (2)

     ___________________________

  (1) : Xem chú thích ở trang kế  540.

  (2) : Xem chú thích trang 524 thuộc Kinh số 149 : SÁU XỨ.


 

          Đã chứng ngộ Minh, Giải thoát (*) chưa ?

              Nếu suy nghĩ kỹ, thấy chưa

       Tỷ Kheo ấy phải chạy đua thì giờ

          Phải tinh tấn từng giờ từng khắc,

          Nếu nghĩ kỹ, thấy thật tình rằng

              Ta đã tu tập tinh cần

       Thì Tỷ Kheo ấy phải cần trú an

          Với hỷ và hân hoan tu tập

          Các thiện pháp trong cả đêm ngày.

 

              Lại nữa, Xá-Lợi-Phất này !

       Sa-môn, Phạm-chí nào ngay trong đời

          Quá khứ thời khiến sự khất thực

          Đã trở thành một mực tịnh thanh

              Là những vị ấy thực hành

       Khiến sự khất thực tịnh thanh bằng điều

          Suy tư, suy tư nhiều như vậy.

 

          Các vị ấy : Phạm-chí, Sa-môn

              Trong thời tương lai bảo tồn

       Cùng thời hiện tại giữ tròn điều đây

          Khiến sự khất thực này thanh tịnh

          Sẽ hay đang thanh tịnh thực hành

              Khiến sự khất thực tịnh thanh

       Bằng cách nghĩ kỹ, tâm thành suy tư.

          Sau khi đã suy tư, nghĩ kỹ 

     _______________________________

 

* Chú thích phần trang trước :

 

(1) : Ba mươi bảy pháp trợ đạo (hay 37 bồ đề phần pháp) gồm :

   Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc (hay như ý túc), ngũ căn,

   ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo.

(*) : Minh và Giải thoát.

 [ Xem chú thích thêm ở phần cuối Kinh, trang 541- 542 ]      



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4422)
cha Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi đến con. chắc con rất ngạc nhiên. Con dang xót xa vì cha cô đơn, ân hận vì không được gần cha đề săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao nghe có sự ngược đời. Con hãy nghe cha nói.
11/02/2013(Xem: 4437)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13531)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13697)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3154)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11359)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3036)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6297)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4268)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4601)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]