Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

152. Kinh Căn Tu Tập

19/05/202011:40(Xem: 9562)
152. Kinh Căn Tu Tập

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


152. Kinh CĂN TU TẬP

( Indriya-bhàvanà sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả 

          Tại Ka-Chân-Ga-Lá (1) trú qua

              Ở Mu-Khê-Lú-Va-Na. (1)

       Có thanh niên Ú-Tá-Rà Bàn-môn

          Đệ tử Bà-la-môn được tả

          Là Pa-Sa-Ri-Dá danh gia.

              Chàng thanh niên Út-Ta-Ra  (2)

       Đi đến trú xứ Phật Đà không xa.

          Sau khi đến, chàng ta liền nói

          Lời chào đón, thăm hỏi xã giao

              Rồi Bàn-môn trẻ ngồi vào

       Một bên cạnh đức thanh cao Phật-Đà.

 

          Phật hỏi Út-Ta-Ra ý nghĩ :

 

    – “ Út-Ta-Rá Phạm-chí ! Thầy ông

              Pa-Sa-Ri-Dá (2) Bàn-môn

       Có giảng cho đệ tử thông hiểu về

         ‘Căn tu tập’ mọi bề không vậy ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Điều ấy có mà !

              Thầy tôi Pa-Sá-Ri-Da

       Về ‘Căn tu tập’ thuyết ra rõ bày ”.

 

    – “ Nhưng Út-Ta-Ra này ! Phạm-chí

          Pa-Sa-Rí-Dá đã trình bày

    ________________________________

 

(1) : Địa phương Kajangala tại Mukheluvana.

(2) : Bà-la-môn trẻ tên Uttara, đệ tử Bà-la-môn Pasariya.

 

              Nói về căn tu tập này

       Để các đệ tử hiểu ngay thế nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Dựa vào lời dạy :

          Không nên thấy sắc với mắt này,

              Không nên nghe tiếng với tai,

       Thưa Tôn Giả ! Là lời thầy của tôi ”.

 

    – “ Nếu là như vậy, thời theo đó

          Người mù là người có căn tu

              Người điếc cũng có căn tu,

       Không thấy sắc với người mù tối thui,

          Vì người đui dù là có mắt

          Cũng không thể thấy sắc, đúng vầy.

              Điếc không nghe tiếng với tai.

       Mù, điếc là mẫu người thầy ngươi mong ? ”.

 

          Phật nói xong, thanh niên im lặng 

          Hổ thẹn, rụt vai hẳn, cúi gầm

              Không nói tiếng nào, như câm.

       Thế Tôn biết hắn thẹn thầm, hổ ngươi,

          Biết rằng người thanh niên Phạm-chí

          Không thể nói gì, chỉ lặng trang,

              Thế Tôn liền gọi A-Nan :

 

 – “ Trong sự kiện vậy, A-Nan-Đa này !  

          Bàn-môn đây : Pa-Sa-Ri-Dá

          Đã thuyết cho tất cả học trò

              Các căn tu tập nhỏ to

       Một cách khác lạ, nhưng do trong điều

          Giới luật nhiều bậc Thánh nghiêm mật

          Vô thượng Căn tu tập khác xa ”.

 

         – “ Bạch đấng Thiện Thệ Phật Đà !

       Nay đã đến lúc thuyết ra việc này

          Căn tu tập các ngài bậc Thánh

          Trong giới luật chân chánh uy nghi.

              Thỉnh Thế Tôn giảng pháp ni

       Được nghe, Tăng Chúng thọ trì, hành qua ”.

 

    – “ A-Nan-Đa ! Hãy nghe, suy nghĩ

          Suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng ra ”.

 

        – “ Thưa vâng, bạch đức Phật Đà ! ”.

       A-Nan vâng đáp. Phật Đà thuyết ngay :

 

    – “ A-Nan này ! Thế nào hiểu khắp

          Vô thượng căn tu tập mãn viên

              Trong giới luật bậc Thánh hiền ?

       Vị Tỷ Kheo mắt thấy liền sắc đây

          Khởi lên ngay khả ý, cùng với

          Bất khả ý khởi tới tức thì.

              Vị ấy như vầy tuệ tri :

      ‘Khả ý, bất khả ý thì khởi lên

          Nơi ta, nên ta biết rõ vậy.

          Cái này khởi lên đấy, hữu vi

              Nên thô. Nhưng mà cái ni

       An tịnh, thù diệu, tức thì Xả mau.

          Cho nên dầu cái gì khởi phát

          Khả ý, bất khả ý, hay là

              Khả ý và bất khả – mà

       Tất cả đều diệt, còn là Xả đây.

 

          A-Nan này ! Như người có mắt 

          Liền mở mắt, nhắm mắt lại, và

              Nhắm mắt rồi mở mắt ra.

       Cũng vậy, như thế hiểu qua nói vào

          Là tốc độ, sự mau chóng ấy

          Và như vậy là dễ dàng đây.

              Với cái gì đã khởi ngay

       Khả ý, bất khả ý hay nó là

          Khả ý và bất khả ý đó

          Đều đoạn diệt, chỉ có Xả này    

              Tồn tại đơn độc ở đây.

       Trong giới luật bậc Thánh, này A-Nan !

          Như vậy gọi rõ ràng đúng hướng

          Căn tu tập vô thượng là đây

              Với mắt nhận thức sắc này.

 

       Lại nữa, Phích-Khú với tai nghe liền   

          Tiếng khởi lên khả ý, bất khả –

          Khả ý và bất khả ý này,

              Vị ấy tuệ tri như vầy :

      ‘Khả ý, bất khả ý này khởi ra

          Ở nơi ta. Cùng là có cả

          Khả ý và bất khả ý ni

              Khởi lên nơi ta tức thì

       Cái này đã khởi, thô vì hữu vi,

          Nhưng cái ni an tịnh, thù diệu

          Tức là Xả được hiểu mọi thì’.

 

              Cho nên dầu cho cái gì

       Khởi lên như vậy, ta thì phải thông :

          Bị đoạn diệt ở trong vị ấy,

          Xả tồn tại. Này A-Nan-Đa !

              Như người lực sĩ nào mà

       Có thể tự búng tay là dễ thôi !

          Như vậy thời là tốc độ động,

          Là mau chóng, là dễ dàng, nên

              Đối với cái gì khởi lên            

       Khả ý, bất khả ý trên, hay là

          Khả ý và bất khả ý ấy

          Và cả thảy đều đoạn diệt ngay

              Chỉ Xả tồn tại ở đây.

       Trong giới luật bậc Thánh, này A-Nan !   

          Vô thượng căn tu tập được gọi

          Với tiếng (nói) nhận thức do tai.

 

              Lại, nữa, A-Nan-Đa này !

       Hương do mũi ngửi, khởi ngay lên là

          Khả ý và khởi bất khả ý –

          Khả ý, bất khả ý khởi đi,

              Vị Tỷ Kheo ấy tuệ tri :

      ‘Những cái này khởi, thô vì hữu vi

          Nhưng cái ni an tịnh, thù diệu

          Tức là Xả, được hiểu mọi thì’.

              Cho nên dầu cho cái gì

       Khởi lên như vậy, ta thì phải thông : 

          Bị đoạn diệt ở trong vị ấy

          Xả tồn tại. Như những giọt mưa

              Chảy trượt đi mất, không chừa

       Không có đọng lại còn thừa ở sen

          Khi lá sen này đang chúc xuống,

          Nên tình huống như thế chính là

              Tốc độ, sự mau chóng, và

       Là sự dễ dãi cái mà khởi lên

          Khả ý hay như trên tả vậy,

          Chỉ còn Xả tồn tại ở đây.

              Trong giới luật bậc Thánh này

       Vô thượng căn tu tập đây gọi vầy.  

 

          A-Nan này ! Rồi lưỡi nếm vị,

          Thân cảm xúc, khả ý khởi lên

              Bất khả ý cũng khởi lên,

       Khả ý và bất khả liền khởi lên.

          Rồi Ý nhận thức liền các pháp

          Tất cả đều thuận hạp khởi lên,

              Khả ý, bất khả ý liền,

       Khả ý và bất khả liền khởi lên.

 

          Vị Tỷ Kheo nói trên suy nghĩ :  

         ‘Ồ ! Khả ý khởi lên nơi ta,

              Bất khả ý khởi nơi ta,

       Khả ý và bất khả mà khởi lên.

          Những cái này khởi lên, ập tới

          Bị thô bởi nó là hữu vi,

              Nhưng là an tịnh cái ni,

       Là thù diệu, tức Xả thì ở đây.

 

          A-Nan này ! Như người lực sĩ

          Tập luyện kỹ, mạnh mẽ tối đa

              Có thể dễ dàng nhổ ra

       Cục đàm vướng cổ, hay là người đây

          Có thể co cánh tay rất dễ,

          Và có thể duỗi cánh tay ra.

              Hay như nhỏ giọt hai, ba

       Giọt nước vào cái chậu mà chậu đây

          Bằng sắt dày đặt trên bếp nóng,

          Các giọt nước mau chóng tan nhanh

              Bị tiêu diệt, biến đi nhanh.

 

       Cũng vậy, như thế đạt thành trải qua

          Là tốc độ, cũng là mau lẹ

          Như vậy là sự dễ dàng khi

              Đối với đã khởi cái gì

       Khả ý, bất khả ý vì khởi ra

          Khả ý và bất khả ý khởi

          Đều diệt bởi ở trong vị này

              Chỉ Xả tồn tại ở đây,

       Trong giới luật bậc Thánh, này A-Nan !

          Gọi là vô thượng căn tu tập

          Với các pháp lục căn nhận ra.

 

              Như vậy, này A-Nan-Đa !

       Vô thượng căn tu tập qua các vì

          Giữ giới luật uy nghi bậc Thánh.

 

          Và thế nào chân chánh con đường

              Của vị hữu-học phải tường ?

       A-Nan ! Vị Tỷ Kheo thường thấy nên

          Mắt thấy sắc khởi lên khả ý,

          Bất khả ý cũng khởi, hay là

              Khả và bất khả ý mà

       Chúng đã phát khởi nơi ta như vầy,

          Nên vị này ưu não, tàm quý,

          Và ghét bỏ. Rồi vị Sư đây

              Sau khi tai nghe tiếng, hay

       Lưỡi nếm các vị, mũi này ngửi hương,

          Thân cảm xúc, ý thường nhận thức

          Các pháp vậy, lập tức khởi ra

              Khả, bất khả ý, và

       Đã từ nơi đã khởi ra đó là

          Khả ý và bất khả ý đó.

          Vì rằng có khả ý cùng là

              Bất khả ý cũng khởi ra,

       Khả và bất khả ý mà khởi ngay

          Nên vị này ưu não, ghét bỏ,

          Và tàm quý – đạo lộ là đây

              Của các vị hữu-học này.

 

       Thế nào là bậc Thánh đầy kiến, văn

          Mà các căn tu tập vô thượng ?

          Này A-Nan ! Trong hướng hành trì

              Sau khi mắt thấy sắc gì

       Khi tai đã nghe tiếng chi, đồng thì

          Mũi ngửi hương, lưỡi thì nếm vị,

          Thân cảm xúc, còn ý ở đây

              Nhận thức pháp. Tỷ Kheo này

       Khởi lên khả ý, khởi ngay lên liền

          Bất khả ý. Khởi lên khả ý

          Và bất khả ý. Vị Sư này

              Khởi lên ước muốn như vầy :

 

      ‘Mong rằng tôi an trú ngay tưởng gì

          Không yểm ly đối với sự vật,

          Yểm ly thật cụ thể chi’.

              Thời vị ấy trú tức thì

       Với tưởng vốn chẳng yểm ly như vầy.

          Nếu vị này khởi lên mong ước : 

 

         ‘Mong tôi được an trú tưởng gì

              Mà tưởng ấy thì yểm ly

       Với sự vật không yểm ly như vầy’.

          Thời ở đây vị ấy an trú

          Với tưởng yểm ly cụ túc này.

              Nếu vị ấy ước muốn vầy :

 

      ‘Mong rằng tôi an trú ngay tưởng gì 

          Không yểm ly đối với sự vật

          Yểm ly, sự vật chẳng yểm ly’.     

              Vị ấy an trú tức thì

       Với tưởng loại chẳng yểm ly như vầy.

          Nếu vị này khởi lên mong ước :

         ‘Mong tôi được an trú tưởng gì

              Mà nó lập tức yểm ly

       Với sự vật không yểm ly, cùng là

          Yểm ly’, mà ở đây vị ấy

          An trú lại với tưởng yểm ly.

 

              Nếu khởi ước muốn thế ni :

      ‘Mong tôi khi đã dứt đi cả là

          Yểm ly và không yểm ly, đạt

          An trú Xả, tỉnh giác, niệm chân

              Thời vị này đã đạt phần

       Chánh niệm, tỉnh giác, trú phần Xả đây.

 

          A-Nan này ! Ta đã đề cập

          Vô thượng căn tu tập các phần

              Trong giới luật bậc Thánh nhân,

       Đã giảng đạo lộ chánh chân hành trì

          Của các vì hữu học, đề cập

          Các căn đã tu tập Thánh uy.

 

              Này A-Nan-Đa ! Những gì

       Bậc Đạo Sư phải thực thi hàng đầu

          Vì từ mẫn, mong cầu hạnh phúc

          Cho đệ tử mọi lúc, thì Ta

              Đã làm với đệ tử Ta.

       Như vậy, này A-Nan-Đa ! Đây là

          Những gốc cây, đây là chỗ trống

          Hãy Thiền tư, chớ phóng dật nào,

              Chớ có hối hận về sau

       Đây là giáo giới thanh cao Ta truyền ”.

 

 

          Đức Thế Tôn an nhiên thuyết giảng

         ‘Căn tu tập’ viên mãn, sâu xa,

              Vị Tôn-giả A-Nan-Đa

       Hoan hỷ tín thọ Phật Đà kim ngôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 152 :  CĂN TU TẬP    –  INDRIYA-BHAVANA  Sutta  )

 

 

 

 

 

HOÀN TẤT

“ Thi hóa TRUNG BỘ KINH ”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4359)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 12897)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13321)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3107)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 10921)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 2970)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6205)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4183)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4428)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3191)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]