Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

63. Tiểu Kinh Malunkyà

19/05/202010:28(Xem: 9893)
63. Tiểu Kinh Malunkyà

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



63. Tiểu Kinh MÀLUNKYÀ
( Cùla Màlunkyà sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ 
          An trú tại Xá-Vệ thành này
              Sa-Vát-Thí cũng là đây
       Chê-Ta-Va-Ná  hôm mai tịnh, hòa
          Do A-Na-Thá-Pin-Đí-Ká
       ( Cấp-Cô-Độc ) Trưởng-giả tin sâu
              Dâng Phật ngôi Tinh Xá đầu
       Để Phật hoằng hóa Pháp mầu sâu xa.       
          Tôn-giả Ma-Lun-Da-Pút-Tá( Malunkyaputta )
          Là hành giả độc trú tịnh cư
              Khởi lên một sự suy tư :
    “ Có một số việc Đại Từ Như Lai
          Không trả lời mà Ngài loại bỏ :
        ‘Thế giới đó thường hay vô thường ?’
             ‘Hữu biên’ & ‘vô biên?’ chẳng tường 
      ‘Thân và sinh mạng cũng dường một thôi ?’
          Hay ‘sinh mạng & thân thời khác thật ?’
        ‘Sau chết, Phật tồn tại hay không ?’
             ‘Như Lai tồn tại và không ?’            
       Không không tồn tại trong dòng Như Lai ?’
 
          Thế Tôn Ngài không hề nói tới
          Giải thích về thế giới ta mong
              Nên ta không được hài lòng
       Không được thỏa mãn chính trong việc này.  
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 63 : MALUNKYA     * MLH –  368
 
          Ta đến Ngài hỏi về việc ấy
          Về thế giới như vậy thế nào ?
              Nếu Ngài giải thích rõ, sâu
       Ta sẽ tiếp tục nương vào Như Lai,
          Sống Phạm hạnh do Ngài chỉ dẫn.
          Nếu Ngài không thuyết giảng điều này 
              Thì ta sẽ hoàn tục ngay,
       Từ bỏ học pháp, từ rày tại gia ”.
 
          Ma-Lun-Dá Pút-Ta vị ấy   
          Từ Thiền tịnh đứng dậy, chiều hôm
              Đi đến hương thất Thế Tôn,
       Đến rồi, đảnh lễ Thế Tôn  hiện tiền
          Tôn-giả liền một bên ngồi xuống
          Bạch với đức Vô Thượng Phật Đà :
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Chuyện xảy ra
       Trong khi con độc trú và tịnh cư    
          Liền khởi lên suy tư muốn rõ
          Thế giới, nó ra sao muôn chiều ?
              Rồi Tôn-giả kể mọi điều
       Xin Phật giảng giải về nhiều điểm đây.
       “ Nếu như Ngài biết rằng : ‘Thế giới
          Là thường còn thì nói thường còn’,
              Còn nếu như Đức Thế Tôn
       Biết rằng ‘thế giới là không thường còn’,
‘Là vô thường’, Thế Tôn hãy đáp.
          Nếu Đại Giác không biết tỏ tường
              Thế giới ‘thường’ hay ‘vô thường’,
       Thì hãy đáp lại : “ Vô phương biết mà ! ”.
          Nếu biết là ‘Hữu biên thế giới’
          Hay ‘Vô biên thế giới’ biết rành 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 63 : MALUNKYA     * MLH –  369
 
     Thì Ngài hãy trả lời nhanh.
       Còn nếu không biết, chân thành nói không.
          Nếu Thế Tôn biết rằng : ‘Sinh mạng
          Và thân này căn bản một’ thôi !   
   ‘Thân và sinh mạng khác’ rồi.
       Trả lời thẳng thắn, khúc nôi tỏ bày.
Biết ‘Như Lai vẫn luôn tồn tại’,
        ‘Không tồn tại sau nhập diệt’ này.
              Biết ‘Có tồn tại Như Lai
       Và không tồn tại Như Lai’ sau cùng.
         ‘Không tồn tại, không không tồn tại’…
          Nếu biết, Ngài đáp lại biết rành,
              Không biết, Ngài trả lời nhanh :
       Không biết, không thấy – chân thành nói ra ”.
 
    – “ Này ông Ma-Lun-Da-Pút-Tá !
          Như Lai đã có bảo ông là :       
             ‘Hãy đến nhập chúng Săng-Ga (1)
       Và sống Phạm-hạnh theo Ta không nào ?
          Ta có hứa ông vào nhập chúng
          Ta sẽ nói về những điều mà
              Ông vừa nêu ra hỏi Ta ? ”.
 
 – “ Thưa không, bạch Đức Phật Đà Toàn Tri ! ”.  
 
    – “ Như vậy thì tự chính ông đã   
          Có yêu cầu Ta trả lời ông    
              Về những điều đó hay không ? ”.
 
 – “ Kính bạch Thiện Thệ ! Con không nói gì ”.
 
    – “ Nếu vậy thì sự tình như vậy
    ______________________________
 
  (1) : Sanghà , phiên âm là Tăng-Già là đoàn thể xuất gia đệ tử           
         Phật , thọ Cụ-túc-giới – sống chung hòa hợp, thanh tịnh .
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 63 : MALUNKYA     * MLH –  370
 
          Kẻ ngu kia ! Ông lại là ai ?
              Ông phủ nhận cái gì đây ?
       Ông phải biết : Nếu có ai nói rằng :
         ‘Ta sẽ sống chánh chân Phạm hạnh
          Theo Thế Tôn, nương Thánh-đế lành
              Khi nào Phật giải thích rành
       Về những nghi vấn phát sanh trong lòng
          Về thế giới ta mong được biết’.
 
          Thì đáng tiếc, y thất vọng thôi !    
              Vì y sẽ chết nhất thời
       Vẫn không được sự trả lời của Ta.
          Này ông Ma-Lun-Da-Pút-Tá !
          Ví như gã bị bắn mũi tên
      Đã được tẩm thuốc độc lên.
       Quyến thuộc, bạn hữu đang bên người này
          Liền mời ngay một người Y sĩ
          Giỏi mổ xẻ, tận tụy – đến đây  
      Để sớm cứu chữa người này.
       Nhưng người bị bắn cản ngay, nói là :
 
        ‘Tôi không rút tên ra để trị
          Khi nào chưa biết kỹ người nào
             Đã bắn mũi tên từ đâu ?
       Y thuộc giòng họ ra sao trong đời ?
          Giòng hoàng tộc hay người binh sĩ ?
          Buôn bán hay Phạm-chí, công nhân ?
              Hay người đó là thợ săn ?
       Y cao hay thấp? Có thân béo, gầy ?
          Da đen hay da vàng, da sẫm ?
          Ở thành phố ? Thị trấn ? Rẫy nương ? 
              Là cung nỏ hay cung thường ?
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 63 : MALUNKYA     * MLH –  371
 
       Dây cung để bắn được đươn thế nào ?
          Bằng dây leo ? Cây lau khéo lựa ?
          Dây gai ? Cây có nhựa ? Gân chi ?
 
              Tôi không rút mũi tên, khi
       Tôi chưa biết rõ những gì tôi mong
          Mũi tên được kết lông con ó ?
          Lông con két ? Hay có lông công ?
              Cánh cung có được uốn cong ?
       Dây gân bò cái ? Gân trong trâu, lừa ?
          Hoặc gân nai được ưa sử dụng ?
          Và tôi cũng muốn biết mũi tên
              Thuộc loại nào được làm nên ?
       Tên nhọn ? Tên móc ? Loại tên đầu sào ?
          Hay thuộc vào tên răng bò cái ?
          Hoặc thuộc loại tên như kẽm gai ?
 
              Ma-Lun-Dá-Pút-Ta này !
       Người ấy sẽ chết, chưa hay biết gì.
          Đời Phạm-hạnh không tùy thuộc với
          Các quan điểm nói tới trên đây :
              Dù thế giới thường còn hoài
       Hay vô thường  – Đời sống này của ta
          Vẫn sinh, già, chết, sầu, bi, khổ,
 Vẫn ưu, não – nguyên tố bất di,
              Mà Ta dạy chớ diên trì
       Ngay hiện tại, đoạn trừ đi tức thời.
          Các quan điểm khác nơi thế giới
          Ông nói tới, thì cũng tương đồng,
              Chỉ là luận thuyết viễn vông
       Không giúp giải thoát khỏi vòng trầm luân.
          Do như vậy, này Ma-Lun-Dá !
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 63 : MALUNKYA     * MLH –  372
 
          Ông hãy khá thọ trì : Trả lời
              Những gì Ta có trả lời,
       Không đáp điều chẳng trả lời của Ta.
          Ma-Lun-Dá-Pút-Ta ! Dứt khoát
          Ta không đáp những điều viễn vông
              Về thế giới có thường còn ?
       Hay vô thường ? Hoặc trong vòng hữu biên ?
          Hoặc vô biên ? Thân và sinh mạng
          Là một, hay căn bản khác nhau ? 
              Như Lai tồn tại về sau ?   
       Hay không tồn tại khi sau chết rồi ?
          Có tồn tại, không thời tồn tại ?
          Không tồn tại và cũng không không
              Tồn tại sau khi chết xong ?…
       Những điều như vậy Ta không trả lời.
          Sao Ta không trả lời như vậy ?
          Vì điều ấy chẳng liên hệ gì
      Đến mục đích cần hành trì.
       Không phải Phạm-hạnh những vì xuất gia,
          Không đưa qua yểm ly, đoạn diệt,
          Không ly tham, tịnh khiết lợi an,
              Thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn,
       Những điều ấy Ta không màng đáp ra.
 
          Ma-Lun-Dá Pút-Ta ! Trái lại
          Ta trả lời, giảng giải thêm ra :
             ‘Đây là Khổ-đế’ trải qua,
      ‘Đây là Tập-đế’, điều Ta trả lời,
          Ta trả lời : ‘Đây là Diệt-đế’,
         ‘Con đường để diệt khổ’ là đây !   
 
              Tại sao Ta trả lời ngay ?
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 63 : MALUNKYA     * MLH –  373
 
       Vì có liên hệ sâu dày mục tiêu
          Đó là điều căn bản Phạm-hạnh,
          Ly tham và xa lánh, tịnh an,
              Thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn,
  Ta trả lời rõ đạo vàng sâu xa.
 
          Ma-Lun-Dá Pút-Ta ! Do thế  
          Hãy thọ trì triệt để, mọi thời :
              Trả lời điều Ta trả lời,
       Không đáp điều chẳng trả lời của Ta ”.
 
          Ma-Lun-Dá Pút-Ta Tôn-giả
          Sau khi đã nghe pháp minh quang
              Được Thế Tôn giảng rõ ràng
       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
*  
*     *
 
(  Chấm dứt  Kinh  số  63  :  Tiểu  Kinh  MÀLUNKYÀ
                       –  CÙLA MÀLUNKYÀ   Sutta  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4422)
cha Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi đến con. chắc con rất ngạc nhiên. Con dang xót xa vì cha cô đơn, ân hận vì không được gần cha đề săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao nghe có sự ngược đời. Con hãy nghe cha nói.
11/02/2013(Xem: 4437)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13532)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13697)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3154)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11359)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3036)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6297)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4268)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4601)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]