Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

19/05/202011:36(Xem: 11427)
139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


139. Kinh VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT

( Aranavibhanga sutta )

 

                     Như vậy, tôi nghe :                     

 

                  Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua        

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na             

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.    

          Tại đây, đấng Pháp Vương cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.  

 

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :  

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải đây

             ‘Vô Tránh Phân Biệt’ pháp này

       Các ông hãy lắng nghe vầy, nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.  

              Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 

 – “ Chớ hành trì dục lạc đầy dẫy ra

          Hạ liệt, phàm phu và đê tiện

          Không xứng bậc hiền thiện Thánh nhân,

              Không liên hệ mục đích cần.

       Và cũng chớ có tự thân hành trì

          Sự cực kỳ khổ hạnh, đau khổ  

          Không xứng chỗ bậc Thánh chánh chân 

              Không liên hệ mục đích cần,

 

       Hai cực đoan ấy phải cần bỏ đi.

          Có con đường Tám Chi Trung Đạo

          Đã được Ta hoàn hảo chứng tri

              Tác thành mắt & trí tức thì 

       Đưa đến an tịnh, liễu tri Niết bàn,

          Thắng tri và hoàn toàn giác ngộ,

          Nên biết chỗ chỉ trích, tán dương.

 

              Sau khi đã biết tán dương,

       Đã biết chỉ trích, nên thường hiểu thông

          Không tán thán và không chỉ trích

          Chỉ nên thích thuyết pháp thẳng ngay,

              Nên biết phán xét lạc này,

       Khi biết phán xét lạc này, chú tâm

          Vào nội lạc thâm trầm mọi mặt

          Không nói lời bí mật, dông dài

              Khi mặt đối mặt với ai,

       Không nên nói khiến cho ai mất lòng,

          Khi nói, không vội vàng, từng bước

          Chớ chấp trước ngôn ngữ địa phương,

              Chớ xa ngôn ngữ dùng thường,

       Đó là tổng thuyết Ta đương nói về

          Trong vấn đề ‘Vô tránh phân biệt’.

 

          Khi nói đến hạ liệt, phàm phu,

              Dục lạc, đê tiện, si ngu,

       Chớ hành trì đến cho dù ở đâu,

          Không xứng bậc thanh cao Thánh tuệ

          Không liên hệ mục đích, cũng như

              Không nên hành trì khư khư

       Tự kỷ khổ hạnh, phạm trù khổ đau,

          Không xứng vào bậc Thánh, mục đích…

          Do duyên gì chắc nịch nói vầy ?

              Phàm lạc gì liên hệ ngay

       Với dục, nhưng đam mê đầy trải qua

          Loại hỷ là hạ liệt, đê tiện

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Pháp như vậy là khổ đau,

       Ưu não, nhiệt não, phiền lao, đạo tà

          Phàm lạc gì kết qua với dục

          Nhưng không chút đam mê trầm phù,

              Loại hỷ hạ liệt, phàm phu,

       Đê tiện, không xứng thuần từ Thánh nhân,

          Không liên hệ đến phần mục đích,

          Pháp như vậy không thích khổ đau,

              Không có ưu não, phiền lao,

       Vô não – chánh đạo thuộc vào lạc đây.

 

          Tự kỷ khổ hạnh đầy đau khổ 

          Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào,

       Hành trì pháp ấy khổ đau mọi bề,

          Ưu & nhiệt não, thuộc về tà đạo.

          Khổ hạnh nào khổ não hành trì

              Không xứng bậc Thánh nghiêm uy.

 

       Không liên hệ mục đích gì ở đây  

          Pháp như vầy không có đau khổ

          Không ưu não, nhiệt não, phiền lao

              Pháp ấy chánh đạo thuộc vào.

 

       Khi nói đến : ‘Chớ dấn sâu hành trì

          Dục lạc gì hạ liệt, đê tiện,

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào.

       Cũng không nên tự dấn sâu hành trì

           Tự kỷ khổ hạnh chi, đau khổ

           Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

               Không liên hệ mục đích nào’.

       Do duyên ấy, được nói vào như trên.  

 

          Khi nói lên : ‘Hai cực đoan đó

          Phải từ bỏ, vì có con đường

              Trung Đạo – đã được Pháp Vương &

       Thế Tôn giác ngộ, đảm đương tác thành

          Về mắt và tác thành về trí,

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn,

       Duyên gì được nói liên quan như vầy ?

          Đường Thánh này tám ngành diễn tiến :

          Chánh tri kiến rồi chánh tư duy,

              Chánh ngữ, chánh nghiệp đồng thì

       Chánh mạng, chánh tinh tấn tri hành thường,

          Chánh niệm, chánh định – đường chánh đó.

 

          Khi nói đến : ‘Từ bỏ cả hai

              Cực đoan ấy’, vì có ngay

       Con đường Trung Đạo Như Lai đã hành,

          Đã giác ngộ, tác thành mắt, trí

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn.

       Do duyên ấy, được rõ ràng nói ra.  

 

          Khi nói là : ‘Nên biết tán thán,

          Biết chỉ trích’. Biết tán thán rồi

              Và khi biết chỉ trích rồi

       Thì không chỉ trích, không lời tán dương,

          Chỉ nên thường thuyết pháp có lợi,

          Do duyên gì nói tới như vầy ?

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Thế nào là tán thán đầy hân hoan ?

 

          Sao nói sang chỉ trích điều đó

          Nhưng không có thuyết pháp mọi thời ?

             Vị ấy chỉ trích số người

       Bảo : ‘Những ai tìm thấy nơi lạc này,

          Liên hệ ngay với dục, mê mẩn

          Loại hỷ dẫn hạ liệt, phàm phu,

              Đê tiện, không xứng Thánh từ,

      Không liên hệ mục đích’, như vậy thời

         Tất cả người như vậy đau khổ,

         Có ưu não, nhiệt não, phiền lao

             Như vậy tà đạo thuộc vào.

 

       Trái lại, không đam mê sâu đường tà

          Hạ liệt, đê tiện và phàm tục,

          Không xứng bực Thánh hiền vân… vân…

              Không liên hệ mục đích cần

       Thì không đau khổ, không phần phiền lao

          Không ưu não, thuộc vào chánh đạo’.

 

          Hoặc nhiên hậu vị ấy ở đây  

              Chỉ trích một số người vầy :

      ‘Những ai mê đắm, thường hay hành trì

          Tự kỷ khổ hạnh, thì không xứng

          Bậc Thánh, không tương ứng liên quan

              Mục đích. Tất cả họ toàn

       Có sự đau khổ, mọi đàng phiền lao,

          Có ưu não, thuộc vào tà đạo.

          Bằng trái lại, chánh đạo thuộc về.

              Trài ngược với các vấn đề     

       Ở trên nói đến mọi bề khác đi.

          Hoặc vị ấy một thì chỉ trích

          Một số người, nói khích bác là :

             ‘Những ai chưa đoạn tận qua

       Hữu kiết sử, họ đều là khổ đau,

          Có phiền lao, ưu não, nhiệt não,

          Thuộc tà đạo. Hoặc là vị đây

              Tán thán một số người vầy :

      ‘Những ai đã đoạn tận rày cho xong

          Hữu kiết sử, họ không đau khổ,

          Không phiền lao, hết chỗ não ưu,

              Thuộc chánh đạo. Các Tỳ-Khưu !

       Là có chỉ trích, có điều tán dương,

          Nhưng không có tận tường thuyết pháp.

 

          Thế nào có thuyết pháp, nhưng mà  

              Không có tán thán cùng là

       Không có chỉ trích ? Nói ra như vầy :

         ‘Bất cứ ai tìm thấy lạc đó,

          Liên hệ với dục, có mê say,

              Hỷ hạ liệt, đê tiện này

       Phàm phu, không xứng bậc Thầy Thánh nhân,

          Không liên hệ về phần mục đích,

          Những vị ấy trầm nịch, khổ đau

              Có ưu não, có phiền lao

       Thuộc tà đạo’. Vị ấy mau thuyết về :

         ‘Sự đam mê là pháp đau khổ

          Có phiền lao, ưu não, đạo tà’.

 

              Vị ấy cũng thuyết pháp ra : 

      ‘Không đam mê cũng chính là pháp duyên

          Không đau khổ, không phiền, nhiệt não, 

          Không ưu não, chánh đạo thuộc nơi’.

              Vị ấy không nói mọi thời :

      ‘Tự kỷ khổ hạnh những người đam mê

          Là không hề xứng bậc Thánh thế !

          Không liên hệ mục đích, khổ đau,

              Ưu não, nhiệt não, phiền lao,

       Thuộc tà đạo. Chỉ trước sau thuyết là

         ‘Sự đam mê chính là tà loại’.

 

          Và ngược lại, không nói vấn đề 

             ‘Những ai không có đam mê…

       Không khổ, chánh đạo thuộc về ở đây’.

          Và vị này chỉ thuyết pháp, bảo :

         ‘Sự an hảo không đam mê này

              Là không đau khổ dằng dai

       Không ưu & nhiệt não, không rày phiền lao,

          Thuộc chánh đạo’. Rồi sau vị ấy  

          Không có nói đại loại như vầy :

 

             ‘Những ai chưa đoạn tận ngay

       Hữu kiết sử, những vị này đều qua

          Sự khổ đau, có ra ưu não,

          Có nhiệt não và có phiền lao’.

 

              Chỉ thuyết pháp, nói như sau : 

      ‘Khi hữu kiết sử chưa mau diệt trừ

          Thì hữu chưa đoạn trừ, diệt tận’.

          Vị ấy vẫn không nói : ‘Những ai

              Đã diệt hữu kiết sử này,

       Họ không đau khổ, không rày phiền lao’…

          Vị ấy thuyết pháp vào điều ấy :

         ‘Hữu kiết sử cả thảy diệt rồi,

               Hữu được đoạn tận tức thời’.

       Các Tỷ Kheo ! Như vậy nơi điều này

          Là không khen, không hay chỉ trích,

          Chỉ thuyết pháp nêu ích lợi ra.

 

              Khi nói : ‘Biết tán thán, và  

       Nên biết chỉ trích’, chỉ là thuyết thôi.

          Chính do duyên này thời nói vậy.

          Khi nói : ‘Phải biết phán xét thầm

              Về lạc, thì nên chú tâm

       Vào nội lạc. Duyên gì nhằm nói đây ?

 

          Chúng Tăng này ! Năm dục trưởng dưỡng.

          Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì ?

              Các sắc pháp do mắt ni

       Nhận thức khả ái, mọi thì đáng yêu

          Liên hệ điều dục và hấp dẫn.

          Các tiếng dẫn nhận thức do tai

              Hương do mũi nhận thức ngay,

       Vị do lưỡi nhận thức đầy thích tăng,

          Xúc do thân cảm giác, khả hỷ,

          Khả ái và khả ý, liên quan

              Đến dục, hấp dẫn vô vàn,

       Năm dục trưởng dưỡng mọi đàng là đây.

 

          Tỷ Kheo này ! Do duyên năm dục

          Trưởng dưỡng ấy tiếp tục khởi lên

              Lạc và hỷ được gọi tên

       Là dục & uế lạc tạo nên mọi thì

          Phàm-phu-lạc hay phi-thánh-lạc.

          Như Lai nói loại lạc như vầy

              Không nên thực hành hằng ngày

       Không nên tu tập, chớ rày mãn sung,

          Nên sợ hãi vô cùng lạc đó.

          Chúng Tăng ! Có tinh tấn hành trì 

              Ly dục, bất thiện pháp ly,

       Chứng đạt, an trú vào chi Nhất Thiền

          Một trạng thái an nhiên hỷ lạc

          Ly dục sanh, có các tứ, tầm.

              Rồi đình chỉ tứ và tầm

       Chứng, trú Đệ nhị Thiền tâm an lành,

          Một trạng thái định sanh vui thực,

          Tầm & tứ dứt, nội tĩnh nhất tâm

              Chứng, trú Đệ tam Thiền tâm,

       Rồi Thiền đệ tứ chứng tầm, trú an.

          Gọi rõ ràng là xuất-ly-lạc,

          Viễn-ly-lạc, an-tịnh-lạc, và 

              Giác-ngộ-lạc. Thì Như Lai

       Bảo thực hành loại lạc này cần chuyên,

          Nên tu tập, khiến nên sung mãn,

          Không sợ hãi. Hoặc khoản nói về :

             ‘Phải nên biết phán xét về

       Lạc ấy’. Khi phán xét về lạc xong

          Chú tâm trong nội lạc ở đấy

          Chính do duyên như vậy nói điều

              Phán xét về lạc sớm chiều

       Không khiếp vía, không sợ nhiều trải qua.

 

          Khi nói là : ‘Không nên có tật 

          Nói lên lời bí mật với ai,

              Khi mặt đối mặt với ai

       Không nói lời lẽ khiến ai mất lòng.

 

          Do duyên gì nói trong ý đó ?

          Các Tỷ Kheo ! Khi có biết qua

              Một lời bí mật nói ra

       Không thực, hư vọng. Cùng là điều đây

          Không liên hệ đến ngay mục đích

          Để lợi ích, chớ có nói lời

              Bí mật ấy ở mọi thời.

       Nếu lời bí mật là lời thực chân

          Không hư vọng, nhưng phần đáng kể

          Không liên hệ mục đích, thì nên

              Đừng nói lời bí mật trên.

       Còn nếu là thực, có liên hệ rồi

          Đến mục đích, tùy thời mà nói.

 

          Cũng như vậy, khi nói với ai 

              Một lời mất lòng, xét soi

       Để không nói hoặc tùy thời nói lên.

 

          Khi nói đến : ‘Hãy nên chậm rãi 

          Nói từ từ, đừng mãi vội vàng’.

              Do duyên gì được nói sang ?

       Ở đây, nếu nói vội vàng, thì thân

          Bị mệt mỏi, tâm thần tổn hại,

          Tiếng tổn hại, cổ họng đau khan,

              Lời nói một người vội vàng

       Không được hiểu, không rõ ràng nêu lên.

 

          Khi nói đến : ‘Chớ nên chấp trước

          Địa-phương-ngữ khi được nghe qua,

              Nhưng cũng chớ đi quá xa

       Ngôn ngữ thường nhật chúng ta hay dùng.

          Do duyên gì nói chung như thế ?

          Thế nào kể chấp trước ở đây

              Về địa phương ngữ như vầy

       Quá xa ngôn ngữ ta hay dùng nhiều ?

          Các Tỷ Kheo ! Trong nhiều quốc độ

          Người ta có tiếng nói khác nhau,

              Chữ viết cũng lại khác nhau.

       Có người chấp thủ chấp vào điều đây, 

          Nói như vầy : ‘Ngôn ngữ, chữ viết

          Chỉ như vậy mới thiệt đúng rồi,

              Ngoài ra hư vọng mà thôi !

       Như thế, họ chấp trước nơi điều là

          Địa phương ngữ, quá xa ngôn ngữ

          Mà căn bản họ tự dùng thường.

 

              Thế nào không chấp trước thường

     Tiếng thường dùng, tiếng địa phương hằng ngày ?

          Các người này  biết các quốc độ

          Những tiếng có, chữ viết khác xa.

              Người không chấp thủ nói là :

      ‘Các vị ấy y cứ qua thế này,

          Đã giải thích như vầy’. Như thế

          Là không để chấp trước trói mình,

              Không xa ngôn ngữ thường tình,

       Chính điều đó là duyên sinh chấp trì.

 

          Ở đây, phàm lạc gì liên hệ

          Với dục để có hỷ đam mê 

              Hạ liệt, đê tiện đáng chê

       Không xứng bậc Thánh, không hề liên quan

          Đến mục đích. Pháp toàn đau khổ

          Có ưu não, nhiệt não, phiền lao,

              Pháp này tà đạo thuộc vào

       Là pháp hữu tránh, tránh mau tức thì.

 

          Còn trái lại, các Tỳ-Kheo Chúng !

          Phàm lạc gì mà chúng cận kề

              Với dục, nhưng không đam mê

       Loại hỷ hạ liệt và đê tiện này

          Phàm phu đầy, không xứng Thánh tịch,

          Có liên hệ mục đích trước sau,

              Pháp ấy không có khổ đau,

       Không có ưu não, phiền lao – thuộc về   

          Chánh đạo. Pháp thuộc về vô tránh.

 

          Phàm tự kỷ khổ hạnh hành trì, 

              Đau khổ, không xứng Thánh uy,

       Không liên hệ mục đích gì thanh cao

          Như vậy có phiền lao, ưu não,

          Thuộc tà đạo. Hữu tránh pháp này.

 

              Trái lại với những điều đây

       Thuộc pháp vô tránh, hành ngay pháp này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây Trung đạo

          Được Phật Bảo giác ngộ, tác thành,

              Về mắt, về trí tác thành

       Đưa đến thắng trí, tịnh thanh, Niết bàn.

          Pháp hoàn toàn không có đau khổ

          Không ưu não, phiển não lầm sai

              Chánh đạo, vô tránh pháp này.

 

       Các Tỷ Kheo ! Còn ở đây nói về

          Pháp tán thán hoặc về chỉ trích

          Nhưng không thích thuyết pháp thanh cao,

              Pháp có ưu não, khổ đau

       Nhiệt não, tà đạo thuộc vào dạng đây,

          Nên pháp này là ‘pháp hữu tránh’.

 

          Trái lại, ‘pháp vô tránh’ hiểu tường :

              Pháp không chỉ trích, tán dương

       Chỉ có thuyết pháp, pháp thường vui an,

          Thuộc chánh đạo, mọi đàng không khổ.

 

          Còn pháp có dục lạc, chính là 

              Uế lạc, phàm phu lạc, và

       Phi thánh lạc, pháp toàn là khổ đau,

          Có ưu não, thuộc vào ‘hữu tránh’.

 

          Ngược lại, pháp ‘vô tránh’ này là  

              Xuất ly lạc, lạc rời xa,

       An tịnh lạc, chánh đạo là pháp đây.

 

          Chúng Tăng này ! Lời nói bí mật  

          Không chân thật, hư vọng, tào lao

              Không liên hệ mục đích nào

       Pháp có nhiệt não, khổ đau, đạo tà,

          Pháp này là ‘hữu tránh’ được gọi.

 

          Còn ngược lại, ‘vô tránh’ pháp này 

              Lời nói bí mật ở đây

       Chân thật, không vọng, không dây dưa gì

           Đến mục đích, pháp ni đau khổ,

           Thuộc tà đạo, ưu não, phiền lao.

               Còn lời nói mất lòng nào

       Khi mặt đối mặt, thuộc vào vọng ngôn,

          Không chân thật, ẩn tồn hư vọng

          Không liên hệ nhanh chóng mục tiêu,

              Có ưu não, đau khổ nhiều

       Là pháp ‘hữu tránh’, pháp nêu đạo tà.

 

          Ngược lại là pháp ‘vô tránh’ đó  

          Lời chân thật, không có khổ đau

              Thuộc chánh đạo, không phiền lao.

 

       Chúng Tăng ! Còn những lời nào nói ra   

          Một cách vội vàng và pháp đó                

          Có ưu não và có phiền lao

              Thuộc tà đạo, có khổ đau

       Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào diện đây.

 

          Ngược điều này là pháp ‘vô tránh’

          Lời nói lên một cách từ từ

              Không đau khổ, không ưu tư,

       Thuộc chánh đạo, pháp an như thuận hòa.

 

          Các Tỷ Kheo ! Người mà chấp cự

          Địa phương ngữ và đi quá xa

              Ngôn ngữ nơi mà người ta

       Vẫn thường sử dụng trải qua hằng ngày.

          Và pháp này đau khổ, ưu não,

          Thuộc tà đạo, nhiệt não, phiền lao

              Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào.

 

       Ngược lại, ‘vô tránh’ pháp nao thuộc về   

          Không chấp nê vào địa phương ngữ,

          Khi đi quá ngôn ngữ thường dùng,

              Không đau khổ, và nói chung

       Không có ưu não, vô cùng chánh chân

          Là pháp phần ‘vô tránh’ an lạc.

 

          Do vậy, các Phích-Khú ! Các ông

              Phải tự tu học, hiểu thông :

       Chúng ta phải biết nằm lòng tế thô

          Hữu tránh pháp cùng Vô tránh pháp,

          Sau  khi biết hai pháp này thì

              Chúng ta sẽ cố hành trì

       Về ‘Vô tránh đạo’ mọi thì trải qua.

 

          Các Tỷ Kheo ! Thiện gia nam tử

          Tu-Bồ-Đề tức Sú-Phú-Ti    (*) 

              Vô tránh pháp đã hành trì

       Một cách tinh tấn, mọi thì vui an ”.

 

          Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng

          Pháp viên mãn, vi diệu lạc an

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 139 :   VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT   

–  ARANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

 

 

 ____________________________

 

 (*) : Tôn-giả Tu-Bồ-Đề  –  Subhuti  – là vị trong Thập Đại Đệ Tử

         của Đức Phật, là bậc Giải Không đệ nhất. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2022(Xem: 3405)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
09/04/2022(Xem: 5975)
Mục đích của cuộc thi giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các việc xảy ra trong đời sống xã hội hàng ngày, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ ứng dụng sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Các thể tài có thể gợi ý như là chuyện công ăn việc làm, chuyện gia đình, học đường, chuyện về đại dịch hay chuyện trong nhà ngoài phố.v.v.. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được cách ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày.
01/04/2022(Xem: 9265)
Nếu có những khúc ngâm đoạn trường trong văn học thi ca làm cho người đọc qua nhiều thế hệ trải mấy nghìn năm vẫn còn cảm xúc đòi đoạn thì Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc là hai khúc ngâm tiêu biểu trong văn chương Việt Nam; cũng như Trường Hận Ca, Tam Lại Tam Biệt và Tần Phụ Ngâm được xem là “tam bi hùng ký” trong văn chương Trung Quốc thời Hậu Đường. Người Việt yêu thi ca thường ưa chuộng dư âm cùng ý vị lãng mạn và bi tráng giàu kịch tính hơn là vẻ bi phẫn và hùng tráng của hiện thực máu xương trong thi ca đượm mùi chinh chiến. Tâm lý nghệ sĩ nầy giúp lý giải một phần câu hỏi còn nằm trong góc khuất văn học là tại sao cho đến nay, hơn cả nghìn năm sau, tác phẩm Tần Phụ Ngâm vẫn chưa có người dịch ra tiếng Việt.
20/03/2022(Xem: 3959)
Với tập sách nhỏ nầy – tác giả không hề nghĩ đó là công trình nghiên cứu; mà chỉ xin được gọi là nén tâm hương, là tấc lòng cảm cựu dâng lên anh linh của người thiên cổ - biểu tỏ sự ngưỡng mộ văn tài và xin được chia sẻ nỗi đau đời, đau người của tiền nhân và hậu học. Sỡ dĩ không gọi là công trình nghiên cứu về Nguyễn Du vì tôi không làm theo hệ thống chương mục của tổng thể tác phẩm, mà chỉ viết theo ngẫu cảm của người đọc đối với mỗi nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”, lại nữa; tôi cũng là một cá thể quanh năm đau yếu – khi viết đề tài này là tôi đang nằm tại chỗ, vì xẹp cột sống lưng và bao chứng bệnh khác – phải chăng là đồng bệnh tương lân???
20/03/2022(Xem: 6206)
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
24/02/2022(Xem: 8762)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
13/02/2022(Xem: 3493)
Gần đây khi nhận được những tập kỷ yếu về các chuyến hành hương (từ các địa điểm tâm linh) gửi tặng từ TT Thích Nguyên Tạng, một lần nữa tôi mới chợt nhận ra tại sao một người tu hay bất cứ một người phàm phu nào cũng cần phải cầu nguyện cho mình có đủ Tam Phước ( Phước vật - Phước đức và Phước Trí ). Trộm nghĩ khi có đủ tam phước rồi thì làm việc gì cũng thành tựu vì đã sử dụng đúng thái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống . Và hạnh phúc là mục đích chính của con người, tiêu biểu cho sự phát triển đầy đủ các đức tính đạo đức của con người ...Nhất là trong Triết lý Phật giáo, hạnh phúc là chủ đề rất quan trọng nghĩa là muốn có hạnh phúc thì phải có bình an ( vật chất lẫn tinh thần ) và nhất định là hạnh phúc này phải phát xuất từ giá trị cuộc sống với sự hoàn thiện nhân cách và luôn giữ 3 nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.
13/02/2022(Xem: 6230)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
31/01/2022(Xem: 5874)
Truyện này viết về một người anh, và nhiều phần là hư cấu. Nghĩa là, chỉ một phần có thực. Nhưng tôi không thể nào nói rõ là phần nào thực, phần nào hư. Nói rõ có khi lại hỏng. Đã viết truyện thì, chẳng tác giả nào nói rõ đâu. Ngay như nhan đề “Bên Trời Đại Lý” cũng thấy là bên kia sự thật rồi, vì Việt Nam mình làm gì có thị trấn Đại Lý, nơi sẽ là bối cảnh của truyện ngắn này. Nhưng, nếu nói thiệt ra là Chợ Lớn, thì lại trần gian quá, chẳng thơ mộng tí nào.
05/01/2022(Xem: 7829)
Khi khoa học ngày càng phát triển, con người càng rời xa tâm linh và phủ nhận tất cả những gì không dựa trên nền tảng khoa học. Tuy nhiên, thế giới tâm linh dù được khẳng định bởi người hữu duyên hoặc phủ nhận bởi người chưa đủ duyên tồn tại song song với thế giới vật chất. Sự nối kết tâm linh là một đề tài sôi nổi trong dòng chính cũng như trong cộng đồng tôn giáo. Trên thực tế, hiện tượng siêu nhiên vẫn là những điều huyền bí mà không phải bất kỳ ai cũng có thể trải nghiệm hay giải mã. Vì vậy, người có khả năng nối kết với thế giới tâm linh và cảm nhận được hiện tượng tâm linh càng trở nên đặc biệt dưới các trường hợp sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]