Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Kinh Vương Tử Vô Úy

19/05/202010:26(Xem: 11309)
58. Kinh Vương Tử Vô Úy

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



58. Kinh VƯƠNG TỬ VÔ ÚY
( Abhayaràjakumàra sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na  (1)
     ( Được dâng cúng bởi Tần-Bà-Sa-La )   
          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Va-Pá  (2)
       ( Chỗ vốn đã nuôi sóc hằng hà ) 
              Vương-tử tên A-Pha-Da  (3)
       Tức là Vô Úy – liền qua đến nhà
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá  (4)
          Giáo Trưởng Ni-Ganh-Thá phái này.
              Đến nơi liền đảnh lễ Thầy
       Một bên, vương-tử ngồi ngay an hòa.
 
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá
          Nói với A-Pha-Dá như vầy :
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến tìm, luận chiến với thầy Sa-Môn
          Gô-Ta-Ma – Tiếng đồn lập tức
          Lan truyền xa : ‘Thần lực cùng là
    __________________________________  
 
(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha 
    – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế .
Tại nơi đây, Vua Bimbisara đã dâng cúng Đức Phật khu rừng trúc của ông để thành lập Trúc Lâm Tinh Xá ( Veluvana Vihàra ).
(2) : Chỗ nuôi sóc Kalandakanivapa .        (3) : Abhaya - Vô Úy .
(4) : Vị Giáo Trưởng của Ni-Kiền-Tử :  Nataputta .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   * MLH  –  298
 
              Uy lực ông Gô-Ta-Ma     
       Mà đã bị Vương-tử này công khai
          Luận chiến thật ngang tài ngang sức
          Vương-tử này quả thực tài cao ”.
 
        – “ Thưa Tôn-giả ! Làm thế nào
       Có thể luận chiến nhằm vào ông ta ?
          Sa-môn Gô-Ta-Ma đích thực
          Đầy thần lực, uy lực như vầy ? ”.
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến Sa-môn đó trình bày sâu xa
          Nêu lên Gô-Ta-Ma câu hỏi : 
         ‘Thế Tôn có thể nói lời mà
              Khi những lời ấy thốt ra
       Khiến những người khác nghe qua, tức thì
          Không ưa gì, lại vừa không thích?’. 
          Nếu Sa-môn họ Thích Ca này
              Đáp : ‘Có thể có như vầy
       Có người không thích lời này của Ta’.
          Hãy vặn lại vị Sa-môn đó :
         ‘Nếu mà có xử sự như vầy
              Có gì sai khác ở đây
       Giữa Thế Tôn với kẻ đầy phàm phu ?
          Kẻ phàm phu nói lời gì đó
Thì cũng có người khác không ưa’.     
 
              Còn nếu khi Vương-tử thưa
       Mà Sa-Môn lại dây dưa nói là :
‘Vương-tử ! Ta đây không thể nói
   Do lời nói, kẻ khác không ưa’.
              Thì Vương-tử hãy nên thưa :
     ‘Nếu xử sự như Ngài vừa nói ra,
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  299
 
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá  (1)
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa (1) phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Vương-tử hỏi câu này
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Này Vương-tước ! Ông Gô-Ta-Ma
              Từ hai câu hỏi nêu ra
       Như bị móc, khó nhả ra nuốt vào ! ”.
 
          Bị Giáo Trưởng khích vào tự ngã
          A-Pha-Dá – Vô Úy, vâng lời
              Đứng dậy từ chỗ đã ngồi
       Đảnh lễ Giáo Trưởng, đoạn rời nơi đây.
 
          Đi đến ngay chỗ Phật an trú 
          Đảnh lễ đấng Điều Ngự hiện tiền
    __________________________________  
 
(1) : Devadatta  tức Đề-Bà-Đạt-Đa , hay còn được gọi tắt là Điều-
   Đạt , cũng là vương-tử dòng họ Sakya (Thích Ca ), anh của Tôn
   giả Ananda . Sau khi Phật thành đạo, trở về Thành Ca-Tỳ-La-Vệ
   tế độ bảy vị vương-tử xuất gia, trong đó có Devadatta và Ananda
            Trong 12 năm đầu, ông tu hành rất nghiêm túc và đắc thần
  thông phàm . Nhưng sau đó khi được vua A-Xà-Thế trọng vọng,
  cung dưỡng mọi nhu cầu, ông trở nên ngã mạn và có ý muốn thay
  Phật để lãnh đạo Giáo đoàn .Bị Phật quở trách, ông ôm lòng oán
  hận , nên đã yêu cầu Phật chấp thuận 5 cấm giới do ông đề nghị..
  Đức Phật không chấp nhận , nên ông đã  tách riêng  và dẫn theo
  một  số Tỷ Kheo mới tu thành lập phái riêng . Ông cũng nhiều lần
  tìm mọi cách để hại Phật nhưng không thành.Ông phạm vào“ngũ
  nghịch đại tội” với 2 tội danh : Phá hòa hợp Tăng (chia rẽ Tăng  
Chúng) và làm thân Phật chảy máu . 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  300
 
              Một bên, vương-tử ngồi yên
       Nhưng vương-tử bỗng nhìn lên mặt trời,
          Suy nghĩ : “ Không phải thời luận chiến,
          Thời gian này không tiện cho ta
              Tranh luận cùng Gô-Ta-Ma
       Ngày mai, luận chiến tại nhà của ta ! ”.
 
          Liền bạch với Phật Đà được rõ :  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Vào ngọ ngày mai
              Mời đến nhà con thọ trai
       Với ba Phích-Khú (1) cùng Ngài quang lâm ”.      
          Phật im lặng, ý thầm chấp thuận,
          Biết Thế Tôn đã nhận lời rồi  
              Vương-tử liền từ chỗ ngồi
       Đứng dậy đảnh lễ, hướng nơi Phật Đà
   Hữu nhiễu và cáo từ, lui gót.
 
          Mãn canh chót, lộ ánh triêu dương
              Theo lời thỉnh, đấng Pháp Vương
       Đắp y, mang bát an tường, uy nghi
          Ba Tỷ Kheo cùng đi, trực chỉ
          Đến nhà của Vô Úy thọ trai,
              Phật ngồi trên chỗ sẵn bày,
       Vương-tử Vô Úy tự tay dâng liền
          Món thượng vị loại mềm và cứng
          Gia nhân đứng phục vụ ngoài trong.
              Sau khi Thế Tôn dùng xong
       Tay rời khỏi bát. Vui lòng chủ gia
          A-Pha-Da liền ngồi nghiêm cẩn
          Trên ghế thấp kê sẵn một bên
    __________________________________  
 
(1) : Bhikkhu : Tỳ-Khưu  hay  Tỷ-Kheo , nghĩa là vị Khất-sĩ .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  301
 
              Rồi vương-tử ấy thưa liền :
 – “ Bạch Phật ! Ngài có nói lên những lời
          Do lời ấy, nhiều người không thích,
          Không ưa, nên đối nghịch với Ngài ? ”.
 
        – “ Vương-tử ! Phải chăng ở đây
       Câu hỏi dụng ý hỏi ngay một chiều ? ”.
 
    – “ Bạch Phật ! Điều mà Ngài đáp lại
          Ni-Ganh-Tha họ bại mất rồi ! ”.   
 
        – “ Vương-tử ! Không thể nói chơi ! 
       Vì sao ông nói những lời như trên ? ”.  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Nêu lên như thế
          Con xin kể cớ sự xảy ra :
              Giáo Trưởng Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con đến gặp Gô-Ta-Ma Ngài
          Để luận chiến với Ngài một trận
          Con ngần ngại, nói thẳng ý mình :
             ‘Sa-Môn Kiều-Đàm cao minh
       Thần lực, uy lực thật tình rất cao
          Làm thế nào mà tôi luận chiến ?’.
 
          Giáo Trưởng bảo thực hiện dễ thôi !     
              Khi gặp vị Kiều-Đàm rồi
       Nêu hai câu hỏi hai thời khác nhau.
          Câu hỏi đầu như con vừa hỏi,
          Nếu Ngài nói rằng có như vầy
              Thì sẽ hỏi vặn lại ngay :
      ‘Xử sự như vậy cũng tày phàm phu,
          Kẻ phàm phu nói lời nào đó
          Thì cũng có người chẳng thích, ưa’. 
              Nếu với câu hỏi con thưa
       Mà câu Ngài đáp thật vừa ý ông
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  302
 
          Là Thế Tôn Ngài không thể nói
          Những lời nói người khác ghét ngay,
              Thì con phải vặn lại vầy :
      ‘Nếu mà xử sự như Ngài nói ra
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá   
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Sa-Môn bị hỏi vầy
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Đó chính là mưu chước bày ra
              Của ông Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con luận chiến trải qua với Ngài
          Rồi từ hai câu con hỏi đó
          Như bị móc móc cổ họng ngay ”.
 
              Lúc bấy giờ, tại nơi này
       Có đứa con nít thơ ngây, hồng hào
          Nằm dựa vào đầu gối vương-tử
          Phật bèn hỏi vương-tử như sau :
 
        – “ Này Vương-tử ! Nghĩ thế nào
       Nếu hài-nhi đó, do vào vô tâm
          Của Vương-tử, hoặc nhằm người vú
          Do vô ý nên chú bé này
              Tự thọc vào miệng que dài
       Hay cầm hòn sỏi nuốt ngay vào mồm,
          Vậy Vương-tử đang ôm đứa nhỏ
          Phải làm gì lúc đó tức thì ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  303
 
        – “ Bạch Ngài ! Con ôm hài-nhi
       Đưa tay vào miệng, kiên trì móc ra
          Nếu không thể móc ra tức khắc
          Thì tay mặt làm như móc câu
              Tay trái giữ chặt lấy đầu
       Móc cho kỳ được, cho dầu máu ra ”.
 
    – “ Vương-tử ! Lời nói Ta cũng vậy !
 
      *  Như Lai biết lời ấy thuộc phần    
              Không như thật, không như chân
       Không tương ứng mục đích cần nói ra,
          Lời nói khiến người ta không thích
          Sẽ công kích hoặc bất mãn ngay
      Thời Ta không nói lời này.   
 
   *  Lời nào Ta biết có đầy như chân
          Cùng như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Khiến cho nhiều người không ưa
       Ta không nói, không dây dưa chuyện này.
 
      *  Lời nói nào Như Lai biết rõ
          Là vốn có như thật, như chân
              Tương ứng với mục đích cần
       Dù lời nói đó mọi phần chánh chân
          Nhưng người khác nhiều phần không thích
          Ta biết thời giải thích lời này.
 
          *  Lời không như thật, chẳng ngay
       Không như chân cũng không rày thanh cao
          Không tương ứng nhằm vào mục đích
          Nhiều người không ưa thích, cau mày 
      Thời Ta không nói lời này.
  *  Lời nào Ta biết vốn đầy như chân
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  304
 
          Và như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Dù những người khác thích, ưa
       Thời Ta không nói và chừa điều đây.
 
      *  Lời biết ngay như chân, như thật
          Mục đích rất tương ứng ở trong
              Khiến nhiều người thích, hài lòng,
       Ta biết giải thích cho thông, hợp thời.
          Vì sao vậy ? Do nơi thương tưởng
          Đối với những hữu tình nơi nơi ”.
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Với những người
       Giòng Sát-Đế-Lỵ, đồng thời Bàn-môn,
          Những Sa-môn, Gia Chủ các vị
          Đều là người có trí, có tài
              Sau khi chuẩn bị sẵn ngay
       Những câu hỏi, đến gặp Ngài hỏi ra :
       “ Bạch Phật Đà ! Chúng con muốn biết
          Ngài có thiệt suy nghĩ trước là :
             ‘Nếu có những ai đến Ta,
       Hỏi Ta điều ấy thì Ta trả lời
 Đúng như điều mà Ta nghĩ trước’,
          Hay câu hỏi đó được trả lời
              Tại chỗ, một cách thảnh thơi ? ”.
 
 – “ Này Vương-tử ! Nghĩ sao nơi chuyện này :
          Nếu có người gặp ngay Vương-tử
          Hỏi Vương-tử quanh chuyện về xe :
             ‘Bộ phận này của cái xe
       Tên gọi của nó trong xe là gì ?’,
          Không hiểu ông có suy nghĩ trước
          Câu trả lời đã được tính rồi ?
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  305
 
              Hay trả lời ngay tức thời ?” .
 
 – “ Bạch Phật ! Con trả lời ngay tức thì
          Điều đó, vì con đây nổi tiếng
          Đánh xe giỏi, phân biện rành về
              Các bộ phận trong cái xe ”.
 
 – “ Cũng vậy, Vương-tử ! Nói về Bàn-môn,
          Sát-Đế-Lỵ, Sa-môn, Gia -chủ,
          Đều có đủ trí tuệ, có tài
              Soạn sẵn câu hỏi như vầy
       Đến Như Lai để hỏi ngay điều này
   Thời Như Lai trả lời tại chỗ.
          Vì sao vậy ? Vì có phạm trù
            ‘Pháp giới’ – Tham-Ma-Tha-Tu  (1)
       Được Ta khéo biết đặc thù sâu xa ”.  
 
          Nghe Phật Đà trình bày tuần tự  
          A-Pha-Da vương-tử thưa ngay :
       – “ Bạch Thế Tôn ! Vi diệu thay ! 
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
    __________________________________  
 
   (1) :  Pháp giới : Dhammadhatu .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  306
 
            Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
          Kể từ nay đến lúc mạng chung
              Tín thành nương đấng Đại Hùng
       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm./-
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
*  *  *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 58  :VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   –  
 ABHAYARÀJAKUMARA Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2022(Xem: 3405)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
09/04/2022(Xem: 5975)
Mục đích của cuộc thi giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các việc xảy ra trong đời sống xã hội hàng ngày, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ ứng dụng sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Các thể tài có thể gợi ý như là chuyện công ăn việc làm, chuyện gia đình, học đường, chuyện về đại dịch hay chuyện trong nhà ngoài phố.v.v.. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được cách ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày.
01/04/2022(Xem: 9265)
Nếu có những khúc ngâm đoạn trường trong văn học thi ca làm cho người đọc qua nhiều thế hệ trải mấy nghìn năm vẫn còn cảm xúc đòi đoạn thì Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc là hai khúc ngâm tiêu biểu trong văn chương Việt Nam; cũng như Trường Hận Ca, Tam Lại Tam Biệt và Tần Phụ Ngâm được xem là “tam bi hùng ký” trong văn chương Trung Quốc thời Hậu Đường. Người Việt yêu thi ca thường ưa chuộng dư âm cùng ý vị lãng mạn và bi tráng giàu kịch tính hơn là vẻ bi phẫn và hùng tráng của hiện thực máu xương trong thi ca đượm mùi chinh chiến. Tâm lý nghệ sĩ nầy giúp lý giải một phần câu hỏi còn nằm trong góc khuất văn học là tại sao cho đến nay, hơn cả nghìn năm sau, tác phẩm Tần Phụ Ngâm vẫn chưa có người dịch ra tiếng Việt.
20/03/2022(Xem: 3959)
Với tập sách nhỏ nầy – tác giả không hề nghĩ đó là công trình nghiên cứu; mà chỉ xin được gọi là nén tâm hương, là tấc lòng cảm cựu dâng lên anh linh của người thiên cổ - biểu tỏ sự ngưỡng mộ văn tài và xin được chia sẻ nỗi đau đời, đau người của tiền nhân và hậu học. Sỡ dĩ không gọi là công trình nghiên cứu về Nguyễn Du vì tôi không làm theo hệ thống chương mục của tổng thể tác phẩm, mà chỉ viết theo ngẫu cảm của người đọc đối với mỗi nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”, lại nữa; tôi cũng là một cá thể quanh năm đau yếu – khi viết đề tài này là tôi đang nằm tại chỗ, vì xẹp cột sống lưng và bao chứng bệnh khác – phải chăng là đồng bệnh tương lân???
20/03/2022(Xem: 6206)
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
24/02/2022(Xem: 8762)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
13/02/2022(Xem: 3493)
Gần đây khi nhận được những tập kỷ yếu về các chuyến hành hương (từ các địa điểm tâm linh) gửi tặng từ TT Thích Nguyên Tạng, một lần nữa tôi mới chợt nhận ra tại sao một người tu hay bất cứ một người phàm phu nào cũng cần phải cầu nguyện cho mình có đủ Tam Phước ( Phước vật - Phước đức và Phước Trí ). Trộm nghĩ khi có đủ tam phước rồi thì làm việc gì cũng thành tựu vì đã sử dụng đúng thái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống . Và hạnh phúc là mục đích chính của con người, tiêu biểu cho sự phát triển đầy đủ các đức tính đạo đức của con người ...Nhất là trong Triết lý Phật giáo, hạnh phúc là chủ đề rất quan trọng nghĩa là muốn có hạnh phúc thì phải có bình an ( vật chất lẫn tinh thần ) và nhất định là hạnh phúc này phải phát xuất từ giá trị cuộc sống với sự hoàn thiện nhân cách và luôn giữ 3 nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.
13/02/2022(Xem: 6230)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
31/01/2022(Xem: 5874)
Truyện này viết về một người anh, và nhiều phần là hư cấu. Nghĩa là, chỉ một phần có thực. Nhưng tôi không thể nào nói rõ là phần nào thực, phần nào hư. Nói rõ có khi lại hỏng. Đã viết truyện thì, chẳng tác giả nào nói rõ đâu. Ngay như nhan đề “Bên Trời Đại Lý” cũng thấy là bên kia sự thật rồi, vì Việt Nam mình làm gì có thị trấn Đại Lý, nơi sẽ là bối cảnh của truyện ngắn này. Nhưng, nếu nói thiệt ra là Chợ Lớn, thì lại trần gian quá, chẳng thơ mộng tí nào.
05/01/2022(Xem: 7829)
Khi khoa học ngày càng phát triển, con người càng rời xa tâm linh và phủ nhận tất cả những gì không dựa trên nền tảng khoa học. Tuy nhiên, thế giới tâm linh dù được khẳng định bởi người hữu duyên hoặc phủ nhận bởi người chưa đủ duyên tồn tại song song với thế giới vật chất. Sự nối kết tâm linh là một đề tài sôi nổi trong dòng chính cũng như trong cộng đồng tôn giáo. Trên thực tế, hiện tượng siêu nhiên vẫn là những điều huyền bí mà không phải bất kỳ ai cũng có thể trải nghiệm hay giải mã. Vì vậy, người có khả năng nối kết với thế giới tâm linh và cảm nhận được hiện tượng tâm linh càng trở nên đặc biệt dưới các trường hợp sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]