Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

88. Kinh Bàhitika

19/05/202010:53(Xem: 9518)
88. Kinh Bàhitika

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


88. Kinh BÀHITIKA 

( Bàhitika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Trú Xá Vệ, Chê-Tá-Va-Na

            ( Tinh Xá Kỳ Viên cũng là )

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường

        ( Người gọi thường là Cấp-Cô-Độc ).

 

          Vị hữu học Thánh giả (1) A-Nan    

              Buổi sáng, đắp y nghiêm trang

       Mang bát tề chỉnh như hàng Săng-Ga  (2)   

          Đi vào Sa-Vát-Thi khất thực,

          Sau bữa ăn, Đại Đức dự trù

              Về Mi-Ga-Rá-Ma-Tu  (3)

       Púp-Pa-Ra-Má (3) thanh tu Giảng đường

          Hay Đông Phương (Đông Viên) Lộc Mẫu

        ( Vi-Sa-Kha (3) thuần đạo cúng dường ) 

              Để nghỉ trưa như lệ thường.

       Lúc bấy giờ, vị Quốc Vương trị vì

          Kô-Sa-La – Pa-Sê-Na-Đí

          Từ thành Sa-Vát-Thí đi ra

              Cưỡi trên con voi tên là 

       Ê-Ka-Pun-Đá-Ri-Kà  oai phong     ( Ekapundarika )  

          Từ hừng đông xuất thành để trẩy.

     ___________________________

 

(1) :  Trong bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác , 3 quả vị Tu-Đà-Hoàn 

    (Sotàpatti ) , Tư-Đà-Hàm (Sakadàgàmi ), A-Na-Hàm (Anàgàmi )

    thuộchàng Thánh giả Hữu Học. Chỉ bậc A-La-Hán là Vô Học.

(2) : Sangha  được phiên âm là Tăng-Già tức Hòa Hợp Chúng.

(3) : Pubbaràma Migaramatu – Đông Phương hay Đông-Viên Lộc

     Mẫu Giảng Đường, do Nữ Đại Thí Chủ Visakha dâng cúng.

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  234

 

          Bỗng Vua thấy ngài A-Nan-Đa

              Liền hướng Si-Ri-Vát-Tha        ( Sirivaddha )

       Đại thần thân cận, hỏi qua tức thì :

 

    – “ Này Si-Ri-Vát-Tha ! Có phải

          Tôn-giả ấy là A-Nan-Đa ? ”.

 

        – “ Tâu ! Đúng ngài A-Nan-Đa ”.  

 

       Quốc vương nước Kô-Sa-La bấy giờ

          Gọi người khác đang chờ nghe lệnh :

 

    – “ Này người kia ! Hãy đến gặp ngay

              Tôn giả A-Nan-Đa này,

       Hãy nhân danh trẫm tại đây cúi đầu

          Đảnh lễ sâu dưới chân Tôn-giả

 

          Thưa rằng : ‘Bạch Tôn-giả A-Nan ! 

              Nếu không bận việc gấp làm

       Mong ngài hãy đợi bên đàng ít lâu ”.

 

    – “ Thưa vâng, tâu Đại Vương ! Tuân mệnh ”.

 

          Người ấy đến gặp ngài A-Nan

              Lời vua dặn nói rõ ràng.

       Tôn-giả im lặng, ý đang nhận lời.
          Ngài đến nơi bờ sông để nghỉ

        ( A-Chi-Ra-Va-Tí  sông này )          ( Aciravati )

              Ngồi xuống dưới một gốc cây.

* * *

       Vua Ba-Tư-Nặc bảo nài voi mau

          Cho voi đến nơi nào đi được,

          Vua xuống voi, cất bước bộ hành

              Hướng đến Tôn-giả A-Nan,

       Đến nơi, đảnh lễ chí thành, tâm chuyên

          Rồi Vua đứng một bên vị ấy :

    – “ Thưa Tôn giả ! Xin hãy ngồi lên

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  235

 

              Thảm ngựa đã trải trên nền ”.

 

 – “ Đại Vương ! Tôi đã ngồi trên chỗ mình,

          Xin an bình ngồi vào ngự tọa ”.

 

          Vua nước Kô-Sa-Lá ngồi an

              Rồi thưa với ngài A-Nan :

 

 – “ Thưa Tôn giả ! Bậc hoàn toàn tịnh thanh

          Là Thế Tôn – Thân hành mọi thứ

          Đều gìn giữ để không thể ai

              Sa-môn, Bàn-môn… tìm hoài

       Cũng không thấy lỗi của Ngài, quở chê ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Không hề khuất tất,

          Các thân hành của bậc Thế Tôn

              Không thể Sa-môn, Bàn-môn

       Bậc trí quở trách, dù trong điều gì ”. 

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Trong khi nói, nghĩ

          Có phải Vô Thượng Sĩ tịnh thanh

              Không làm khẩu hành, ý hành

       Khiến cho các bậc thiện lành Sa-môn,

          Hay Bàn-môn có trí quở trách ? ”.

 

 – “ Thưa ! Thế Tôn trong sạch hoàn toàn 

          Khẩu hành, ý hành minh quang

       Không ai có thể cáo gian về Ngài ”.

 

    – “ Vi diệu thay ! Kính thưa Tôn-giả !

          Thưa Tôn-giả ! Thật hy hữu thay !

              Điều trẫm không thể hỏi ngay

       Một cách đầy đủ thì ngài A-Nan

          Đã nói lên hoàn toàn đủ ý

          Trong câu đáp chí lý vừa qua.

              Tôn-giả ! Người ngu si, mà

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  236

 

       Thiếu kinh nghiệm hủy báng và tán dương

          Đến người khác, nhưng thường không thể

          Chứng nghiệm, suy xét để hiểu mau,

              Trẫm đây không y cứ vào

       Xem như là lõi cây nào đó thôi.

 

          Nhưng đồng thời, người trí tán thán

          Hay hủy báng người khác điều gì

              Có chứng nghiệm và xét suy

       Thì trẫm y cứ tức thì vào đây

          Xem như là lõi cây như vậy.

          Nhưng Tôn-giả nhận thấy ra sao

              Thân hành, khẩu & ý hành nào

       Các vị trí giả thuộc vào Sa-môn

          Hay Bàn-môn quở la, trách cứ ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Bất cứ thân hành

              Khẩu hành và cả ý hành

       Là điều bất thiện mà hành động ra

          Thì người trí quở la, trách khiển ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Bất thiện thế nào

              Về thân & khẩu & ý hành vào ? ”.

– “ Đại Vương ! Ở các việc nào xảy ra

          Mà có tội, thì là bất thiện ”.

 

    – “ Sao là chuyện có tội  định danh ? ”.

 

        – “ Điều gì có hại – thực hành

       Gọi là có tội khẩu hành & ý & thân ”.

 

     – “ Sao là nhân các hành có hại ? ”.

 

     – “ Bất cứ loại thân & khẩu & ý hành 

               Có khổ báo, hại đến nhanh ”.

 

 – “ Tôn-giả ! Khổ báo các hành là sao ? ”.

 

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  237

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Phàm vào thực tiễn

          Các hành khiến tự hại, hại người

              Đưa đến hại cả hai, thời

       Bất-thiện-pháp khởi từ nơi thân hành

          Hoặc khẩu hành, ý hành ; phải hiểu

          Các thiện pháp giảm thiểu rất nhiều.

              Các hành như vậy là điều

       Khiến các bậc trí, phần nhiều Sa-môn

          Hay Bàn-môn quở la, trách mãi ”. 

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Có phải Phật Đà  

              Tán thán sự đoạn trừ qua

       Tất cả bất thiện pháp đà khởi ra ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Phật Đà là bậc

          Đã diệt bất thiện pháp cả rồi,

              Thành tựu thiện pháp mà thôi ”.

 

 – “ Nhưng thưa Tôn-giả ! Vậy thời ra sao

          Các hành nào không bị Phạm-chí &

          Sa-môn trí quở trách sẵn dành ? ”.

 

         – “ Bất cứ các thiện thân hành

       Thiện khẩu hành với ý hành thiện chân ”.

 

    – “ Hành nào thiện về thân & khẩu & ý ? ”.

 

    – “ Thân & khẩu & ý hành chẳng tội chi ”.

 

        – “ Thế nào không có tội gì

       Về thân & khẩu & ý-hành khi thực hành ? ”.

 

    – “ Khi các hành nào không có hại ”.

 

    – “ Sao các hành không hại biết ra ? ”.

 

        – “ Đại Vương ! Các hành nào mà

       Có lạc báo, không hại qua điều gì ”.

    – “ Các hành chi có được lạc báo ? ”.

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  238

 

   – “ Thưa Đại Vương ! Lạc báo có nơi

              Không làm tự hại, hại người,

       Không đưa đến hại cả người lẫn ta

          Từ các hành xảy ra như vậy

          Bất thiện pháp sụt mãi, giảm tiêu,

              Thiện pháp càng tăng trưởng nhiều.

       Các hành như vậy là điều tốt hơn,

          Không bị các Sa-môn, Phạm-chí

          Bậc có trí quở trách, rầy la ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Có phải Phật Đà

       Tán thán thiện pháp trải qua tựu thành ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Tịnh thanh cùng khắp

          Các thiện pháp Phật đã tựu thành,

              Các bất thiện pháp diệt nhanh ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Thật quang minh điều này !

          Vi diệu thay ! Thật là khéo nói

          Những điều trẫm muốn hỏi, nêu ra

              Thì Tôn-giả A-Nan-Đa

       Khéo làm trẫm thỏa mãn và hỷ hoan   

          Do hoan hỷ, lạc an, thỏa mãn

          Với những lời xác đáng của ngài,

              Trẫm sẵn sàng tặng cho ngài

       Voi báu, ngựa báu & tặng ngay một làng

          Như ân tứ của hoàng gia vậy,

          Nhưng điều ấy trẫm được biết rằng :

             ‘Việc này Tôn-giả A-Nan

       Không được phép nhận, vì hàng xuất gia’.

 

          Tôn-giả A-Nan-Đa ! Hiện tại   

          Trẫm có cuộn vải ngoại hóa đây

              Do A-Xà-Thế vua này

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  239

 

       Từ Ma-Ga-Thá tặng rày trẫm đây.

          Dài mười sáu khuỷu tay, rộng tới

          Tám khuỷu tay, gắn với cán dù,

              Mong Tôn-giả vì lòng Từ

       Nạp thọ lễ vật do từ trẫm dâng ”.

 

     – “ Thưa Đại Vương ! Bần tăng đã có

          Đủ ba y, không thọ y thừa ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Sau cơn mưa

       Từ hướng trên núi chảy đùa xuống xuôi

          Ngài và trẫm đồng thời thấy cả

          A-Chi-Rá-Va-Tí sông đây

              Chảy mạnh, hai bờ tràn đầy

       Cũng vậy, dùng tấm vải này may y,

          Hãy tặng lại tam y đã cũ

          Cho Tăng-lữ Phạm hạnh cần y.

              Như vậy sự bố thí ni

       Của trẫm, trôi chảy tức thì, ví như

          Nước tràn bờ do từ nguồn dẫn 

          Mong ngài nhận vải ngoại hóa này ”.

 

              Tôn-giả A-Nan nghe vầy

       Nên nhận tấm vải vua đây cúng dường.

          Rồi Quốc vương Pa-Sê-Na-Đí

          Thưa với vị Tôn-giả từ hòa :

 

        – “ Thưa Tôn-giả A-Nan-Đa !

       Nay trẫm xin kiếu vì đa đoan nhiều,

          Nhiều trách nhiệm tại triều chờ đấy,

          Những công vụ cần phải làm liền ”.

 

        – “ Đại Vương ! Ngài hãy tự nhiên

       Làm những gì nghĩ hợp duyên, hợp thời ”.

 

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  240

 

          Từ chỗ ngồi, vua liền đứng dậy

          Vui, tín thọ lời ấy của ngài

              Thân bên phải hướng về ngài

       Rồi rời nơi ấy đi ngay, bấy giờ.

 

          Sau khi vua nước Kô-Sa-Lá

          Đã từ giả ngài A-Nan-Đa,

              Tôn-giả liền đến Phật Đà

       Đến nơi đảnh lễ, an hòa ngồi bên,

          Đoạn Tôn-giả thưa lên với Phật

          Tường thuật tất việc đàm thoại ni

              Với vua Pa-Sê-Na-Đi

       Rồi dâng tấm vải do vì Quốc vương

          Đã dâng ngài, cúng dường Đại Giác.

 

          Thế Tôn nói với các Tỷ Kheo : 

 

        – “ Hãy nghe, này các Tỷ Kheo !

       Thật là hạnh phúc duyên theo của vì

          Vua Pa-Sê-Na-Đi thực hiện

          Được yết kiến Tôn-giả A-Nan     

              Nghe pháp và được cúng dàng

       Thật là tốt đẹp vô vàn cho vua ”.

 

          Nghe Phật vừa giảng giải như thế

          Việc liên hệ Tôn-giả A-Nan,

              Chúng Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 88  :  BÀHITIKA   –

BÀHITIKA   Sutta  )






***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2022(Xem: 3405)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
09/04/2022(Xem: 5975)
Mục đích của cuộc thi giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các việc xảy ra trong đời sống xã hội hàng ngày, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ ứng dụng sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Các thể tài có thể gợi ý như là chuyện công ăn việc làm, chuyện gia đình, học đường, chuyện về đại dịch hay chuyện trong nhà ngoài phố.v.v.. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được cách ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày.
01/04/2022(Xem: 9265)
Nếu có những khúc ngâm đoạn trường trong văn học thi ca làm cho người đọc qua nhiều thế hệ trải mấy nghìn năm vẫn còn cảm xúc đòi đoạn thì Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc là hai khúc ngâm tiêu biểu trong văn chương Việt Nam; cũng như Trường Hận Ca, Tam Lại Tam Biệt và Tần Phụ Ngâm được xem là “tam bi hùng ký” trong văn chương Trung Quốc thời Hậu Đường. Người Việt yêu thi ca thường ưa chuộng dư âm cùng ý vị lãng mạn và bi tráng giàu kịch tính hơn là vẻ bi phẫn và hùng tráng của hiện thực máu xương trong thi ca đượm mùi chinh chiến. Tâm lý nghệ sĩ nầy giúp lý giải một phần câu hỏi còn nằm trong góc khuất văn học là tại sao cho đến nay, hơn cả nghìn năm sau, tác phẩm Tần Phụ Ngâm vẫn chưa có người dịch ra tiếng Việt.
20/03/2022(Xem: 3959)
Với tập sách nhỏ nầy – tác giả không hề nghĩ đó là công trình nghiên cứu; mà chỉ xin được gọi là nén tâm hương, là tấc lòng cảm cựu dâng lên anh linh của người thiên cổ - biểu tỏ sự ngưỡng mộ văn tài và xin được chia sẻ nỗi đau đời, đau người của tiền nhân và hậu học. Sỡ dĩ không gọi là công trình nghiên cứu về Nguyễn Du vì tôi không làm theo hệ thống chương mục của tổng thể tác phẩm, mà chỉ viết theo ngẫu cảm của người đọc đối với mỗi nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”, lại nữa; tôi cũng là một cá thể quanh năm đau yếu – khi viết đề tài này là tôi đang nằm tại chỗ, vì xẹp cột sống lưng và bao chứng bệnh khác – phải chăng là đồng bệnh tương lân???
20/03/2022(Xem: 6206)
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
24/02/2022(Xem: 8762)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
13/02/2022(Xem: 3493)
Gần đây khi nhận được những tập kỷ yếu về các chuyến hành hương (từ các địa điểm tâm linh) gửi tặng từ TT Thích Nguyên Tạng, một lần nữa tôi mới chợt nhận ra tại sao một người tu hay bất cứ một người phàm phu nào cũng cần phải cầu nguyện cho mình có đủ Tam Phước ( Phước vật - Phước đức và Phước Trí ). Trộm nghĩ khi có đủ tam phước rồi thì làm việc gì cũng thành tựu vì đã sử dụng đúng thái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống . Và hạnh phúc là mục đích chính của con người, tiêu biểu cho sự phát triển đầy đủ các đức tính đạo đức của con người ...Nhất là trong Triết lý Phật giáo, hạnh phúc là chủ đề rất quan trọng nghĩa là muốn có hạnh phúc thì phải có bình an ( vật chất lẫn tinh thần ) và nhất định là hạnh phúc này phải phát xuất từ giá trị cuộc sống với sự hoàn thiện nhân cách và luôn giữ 3 nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.
13/02/2022(Xem: 6230)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
31/01/2022(Xem: 5874)
Truyện này viết về một người anh, và nhiều phần là hư cấu. Nghĩa là, chỉ một phần có thực. Nhưng tôi không thể nào nói rõ là phần nào thực, phần nào hư. Nói rõ có khi lại hỏng. Đã viết truyện thì, chẳng tác giả nào nói rõ đâu. Ngay như nhan đề “Bên Trời Đại Lý” cũng thấy là bên kia sự thật rồi, vì Việt Nam mình làm gì có thị trấn Đại Lý, nơi sẽ là bối cảnh của truyện ngắn này. Nhưng, nếu nói thiệt ra là Chợ Lớn, thì lại trần gian quá, chẳng thơ mộng tí nào.
05/01/2022(Xem: 7829)
Khi khoa học ngày càng phát triển, con người càng rời xa tâm linh và phủ nhận tất cả những gì không dựa trên nền tảng khoa học. Tuy nhiên, thế giới tâm linh dù được khẳng định bởi người hữu duyên hoặc phủ nhận bởi người chưa đủ duyên tồn tại song song với thế giới vật chất. Sự nối kết tâm linh là một đề tài sôi nổi trong dòng chính cũng như trong cộng đồng tôn giáo. Trên thực tế, hiện tượng siêu nhiên vẫn là những điều huyền bí mà không phải bất kỳ ai cũng có thể trải nghiệm hay giải mã. Vì vậy, người có khả năng nối kết với thế giới tâm linh và cảm nhận được hiện tượng tâm linh càng trở nên đặc biệt dưới các trường hợp sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]