Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

98. Kinh Vàsettha

19/05/202010:56(Xem: 9395)
98. Kinh Vàsettha

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


98. Kinh VÀSETTHA

( Vàsettha sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Chánh Đẳng

          Trú tại Ích-Cha-Nắng-Ka-La  (1)

            ( Tức Y-Xa-Năng-Gia-La )  

       Rừng Ích-Cha-Nắng-Ka-La một thời.

          Lúc bấy giờ gần nơi rừng ấy

          Nhiều Bàn-môn thông thái, trứ danh

              Nhiều đại phú hào khôn lanh

       Ở tại làng ấy, tiếng lành đồn xa :

          Ta-Rút-Kha (2), Chân-Ky (2) Phạm-chí

          Pốt-Kha-Ra-Sa-Tí  (2) Bàn-môn

              Hay Tô-Đây-Gia  (2) Bàn-môn

       Cha-Nút-Sô-Ni  (2) Bàn-môn … các nhà

          Cùng Phạm-chí, Phú gia nhiều nữa .

 

           Lúc bấy giờ , trang lứa thanh niên

              Cùng nhau tản bộ hoa viên

       Vừa đi vừa nghĩ sự duyên đáng bàn

          Rồi hai chàng Bàn-môn  anh tuấn

          Đã nghị luận quanh chuyện gần xa

              Khởi lên giữa Va-Sết-Tha  (3)

       Cùng với Pha-Rát-Va-Cha (3) – bạn chàng

    ______________________________

 

          *  Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-la-môn .

(1) : Địa phương và rừng Icchanankala.

(2): Các vị Bà-la-môn :Tàrukkha (Đa-lê-xa), Canki (Thương-già),

        Pokkharasàti (Phí-già-la-bà-la) , Todeyya (Đạo-đề-đa) .

       Jànussoni (Sanh Lậu).

(3) : Hai thanh niên Bà-la-môn : Vàsettha và Bharadvàja .

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  404

 

          Câu chuyện mà hai chàng luận nghị :

         ‘Thế nào là một vị Bàn-môn ?’.

 

              Pha-Rát-Va-Cha ôn tồn   

       Nói rằng : “ Một Bà-La-Môn tạo thành

          Được thiện sanh từ phụ & mẫu hệ

          Có liên hệ huyết thống tịnh thanh

              Bảy đời Tổ phụ chính danh,

       Không bị chỉ trích thọ sanh di truyền ”.

 

          Nhưng thanh niên Va-Sết-Thá nói :

 

    – “ Vị được gọi Bà-La-Môn này

              Phải có giới hạnh đủ đầy

       Tựu thành các cấm giới ngay mọi thì ”.

 

          Mỗi thanh niên đều vì thiên kiến

          Trong câu chuyện họ đang luận tranh

              Với ý kiến của mỗi anh

       Không ai chấp nhận, chỉ dành ý riêng.

 

           Sau, thanh niên tên Va-Sết-Thá

          Bảo Pha-Rát-Va-Chá  ý này :

            “ Này bạn ! Tôi nghe gần đây

       Sa-Môn Thích Tử đủ đầy tinh hoa

          Giòng Thích-Ca, xuất gia chứng ngộ

          Ngài có họ là Gô-Ta-Ma

              Hiện đang an trú không xa

       Rừng Ích-Cha-Nắng-Ka-La nơi này.

 

          Tại nơi đây Tôn Giả an trú

          Cùng với Chúng Phích-Khú (Tỷ Kheo )

              Đệ tử ngưỡng mộ vâng theo

       Trí và Giới đức thảy đều nghiêm minh

          Mười tôn hiệu uy linh diệu ngữ :

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  405

 

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ  hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,       

              Do sự chứng ngộ tự Ngài

       Xứng đáng cho chúng ta đây thân hành 

          Đến yết kiến hỏi rành nghĩa lý

          Ngài trả lời, ta chỉ thọ trì ”.

 

              Anh kia đồng ý tức thì     

       Hai Bàn-môn trẻ cùng đi đến rừng

          Gặp Thế Tôn, chào mừng thăm hỏi

          Lời chúc tụng họ nói xã giao.

              Sau khi cả hai đã chào

       Đến chỗ ngồi xuống, hỏi vào sự duyên.

          Va-Sết-Tha thưa liền bằng kệ

          Với Thế Tôn Thiện Thệ tức thời :

 

 – “ Chúng con, với cả hai người

       Được tôn xưng, nhận những lời ngợi ca

       Là bậc thông thái, hiểu xa

       Suốt cả ba tập Vệ-Đà tường tri

       Con là đệ tử của vì

       Tên Pốc-Kha-Rá-Sa-Tì (1) Bàn-môn.

       Ngài Ta-Rút-Khá (1) đáng tôn

       Là thầy của vị Bàn-môn trẻ này.

 

       Vệ-Đà nghĩa lý sâu dày

       Chúng con đều thông đạt ngay rõ ràng.

       Văn cú, văn phạm luận bàn

    __________________________

 

(1) : Hai vị thầy Bà-la-môn : Pokkharasàti và Tarukkha . 

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  406

 

       Chúng con thấu hiểu dễ dàng khoan thư.

       Thuyết giảng, giải thích ngữ từ

       Thật giống với bậc Đạo Sư an hòa.

 

       Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Chúng con hai đứa vừa qua luận bàn

       Có sự tranh luận dở dang

       Về việc Phạm-Chí các hàng trải qua

       Bạn con : Pha-Rát-Va-Cha

       Bảo do sự ‘thọ sanh’ mà có danh

      ‘Bà-La-Môn’ được tạo thành.

       Nhưng con bảo : Do ‘hành động’ riêng

       Mà thành Bà-La-Môn liền.

 

       Mong bậc Pháp nhãn vô biên Phật Đà   

       Hiểu sự việc đã xảy ra

       Vì cả hai đứa tỏ ra cứng đầu,

       Không thể thuyết phục được nhau

       Nên cùng đi đến để mau hỏi Ngài

       Bậc Chánh Đẳng Giác Như Lai.

 

       Như mặt trăng được tròn đầy, không mây

       Quần chúng đến để chắp tay

       Đảnh lễ, chiêm ngưỡng trăng đây sáng ngời.

       Cũng như vậy, ở trong đời

       Quần chúng đảnh lễ, hết lời ngợi ca

       Vị Tôn Giả Gô-Ta-Ma.

 

       Chúng con xin hỏi trải qua tạo thành

       Bà-La-Môn do thọ sanh ?

       Hay do hành động chính mình làm ra ?

       Chúng con không biết đâu là !

       Nay kính xin đức Phật Đà giảng ra ”.

       Thế Tôn liền thuyết an hòa :

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  407

 

 – “ Này thanh niên Va-Sết-Tha ! Nghe này !

       Ta trả lời cho ông ngay  

       Thuận thứ, như thật, trình bày phân minh.

       Sự phân loại là do sinh

       Của khắp các loại hữu tình xưa nay.

 

       Chính do sự sinh đẻ này

       Mà có dị loại. Như cây, cỏ gì

       Dẫu chúng không nhận thức chi

       Nhưng chúng có tướng, đến thì thọ sinh

       Nên có dị loại do sinh.

 

       Hãy xem các loại sinh linh khắp cùng :

       Các loại kiến, các côn trùng,

       Bướm đêm… Chúng có tướng dùng thọ sanh

       Do sinh, dị loại tạo thành.

 

       Hãy xem có loại chúng sanh ( như bò )

       Bốn chân, loại nhỏ loại to

       Tướng thọ sinh, dị loại do sinh này.     

 

       Hãy xem loài bò sát đây 

       Loài lươn, loài rắn, lưng dài… khắp nơi.

       Các loại cá sông, biển khơi

       Sinh sống trong nước. Bầu trời loài chim.

 

       Có tướng thọ sinh ẩn tiềm

       Do sinh, có dị loại liền trải qua

       Tùy theo sự thọ sinh, mà

       Chúng có tướng-tùy-sanh qua mọi thời.

 

       Nhưng trong thế giới loài Người

       Tướng sinh không có nhiều nơi như vầy

       Không ở mái tóc, ở tai,

       Ở đầu, ở mắt, lông mày,mũi, môi,

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  408

 

       Không ở cổ, nách, mồ hôi,

       Không ở bụng, ngực, hoặc nơi cửa mình,

       Không ở lưng, ở dâm tình,

       Không ở ngón, móng, tay mình hoặc chân,

       Không ở vế, gối, cổ chân,

       Không ở sắc, tiếng… mọi phần định danh.

 

       Không tướng và do tùy sanh

       Dị loại sai khác, tùy sanh thời kỳ

       Trên tự thân con người thì

       Không chi đặc biệt, chỉ tùy danh xưng

       Được gọi loài Người đặc trưng

       Đối với người tự không ngừng mưu sinh,

 

       Chăn bò, cày ruộng đất mình

       Này Va-Sết-Thá ! Đinh ninh biết là

       Kẻ ấy là người nông gia,

       Không phải kẻ ấy là Bà-La-Môn.

 

       Ai sống nghề nghiệp sinh tồn

       Hãy biết kẻ ấy là công nhân mà !

       Không phải Bàn-Môn thế gia.

 

       Ai sống buôn bán gần xa thứ cần

       Kẻ ấy là người thương nhân

       Không phải Phạm-Chí. Ai hằng trải qua

 

       Hầu hạ giai cấp cao xa

       Là người nô bộc, không là Bàn-Môn.

 

       Ai sống trộm cắp sinh tồn

       Là người trộm cắp, Bàn-Môn chẳng là.

 

       Ai người cung tên, chiến xa

       Là người quân đội, không là Bàn-Môn.

 

       Ai người tế tự làm tròn

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  409

 

       Tế quan – Không phải Bàn-Môn trên đời.

 

       Ai sống giữa chốn loài Người

       Thọ hưởng dục lạc, ở ngôi trị vì

       Là hàng vua chúa quyền uy

       Cai trị cả nước, kinh kỳ, làng thôn,

       Không phải là Bà-La-Môn.  

 

       Như Lai không gọi Bàn-Môn người nào

       Chỉ vì do thọ sanh đâu !

       Dầu cho vị ấy thật giàu, cao sang

       Nhưng còn ham lợi thế gian.

 

       Người mà thế lợi không màng, tâm yên

       Kẻ ấy Ta mới gọi tên

       Bà-La-Môn ấy vững bền chính danh.

 

       Đoạn tận kiết sử chẳng lành

       Không ai không sợ hãi dành kẻ đây,

       Siêu việt mọi chấp-trước vầy,

       Thoát ly các hệ phược đầy xấu xa,

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí, tức Bà-La-Môn.

 

       Cắt dây thừng, dây ách xong

       Dây cương, dây trói cũng không còn gì

       Cây chắn ngang, gỡ quăng đi,

       Kẻ ấy Ta gọi một vì suốt thông

       Giác ngộ, đáng gọi Bàn-Môn.  

 

       Ai không lỗi, chịu đựng trong mọi điều

       Nhiếc mắng, đánh trói bao nhiêu

       Cũng đều kham nhẫn, cũng đều không sân,

       Trang bị với nhẫn lực phần

       Ta gọi vị ấy ‘tinh cần Bàn-Môn’.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  410

 

       Không phẫn nộ, giới vuông tròn,

       Có giới hạnh, họ không còn mạn kiêu

       Thân tối hậu, nhiếp phục điều,

       Vị ấy đáng gọi sớm chiều Bàn-Môn.

 

       Như nước trên lá sen tròn

       Hạt cải trên đỉnh nhọn, còn giữ yên

       Không tham luyến dục vọng phiền

       Bà-La-Môn – Ta gọi liền chính danh.

 

       Ai biết đời này chẳng lành

       Vì ngã đoạn tận tạo thành khổ đau,

       Gánh nặng được đặt xuống mau,

       Xa lìa các hệ phược sâu nặng này,

       Kẻ ấy Ta mới gọi ngay

       Bà-La-Môn, chính danh đầy thanh cao.

 

       Người có trí, tuệ thâm sâu

       Thiện xảo đạo phi đạo mau mọi thời,

       Đích tối thượng đạt được rồi

       Kẻ ấy Ta gọi là người Bàn-Môn.

 

       Ai sự liên hệ không còn

       Tại gia, xuất thế đều không có nhà,

       Thiểu dục, não phiền lánh xa

       Chính danh Phạm-Chí mà Ta gọi vầy.

 

       Đối với chúng sinh, vị này

       Bỏ gậy, bỏ kiếm, không rày hại ai.

       Kẻ ấy Ta mới gọi ngay

       Bà-La-Môn có đủ đầy chính danh.

 

       Với kẻ thù oán, tâm lành

       Giữa người hung bạo, thực hành tịnh an,

       Giữa chấp thủ, không chấp càn.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  411

 

       Kẻ ấy Ta gọi là hàng Bàn-Môn.

 

       Dối trá, tham, sân, tự tôn

       Ai dứt được chúng, không còn chơi vơi

       Ví như hạt cải đã rơi

       Đầu nhọn của mũi kim ; thời Như Lai

       Mới gọi Bàn-Môn vị này.

 

       Ai thật nhỏ nhẹ, lời đầy thẳng ngay

       Không hề xúc chạm một ai.

       Chính danh, Ta gọi vị này Bàn-Môn.

 

       Dài, ngắn, lớn, nhỏ, thẳng, cong,

       Thanh tịnh, bất tịnh hoặc vòng bé, to.

       Không lấy vật gì không cho

       Ta gọi Phạm-Chí là do như vầy.

 

       Ai không tham cầu dẫy đầy

       Đời này, đời tiếp dứt ngay tham cầu,

       Đoạn rời mọi hệ phược mau.

       Ta gọi Phạm-Chí thanh cao, vị này.

 

       Ai không chấp tàng sâu dày

       Trí đoạn nghi hoặc, vị đây đêm ngày

       Đạt nhập đáy bất tử ngay.

       Ta gọi Phạm-Chí vị này, chính danh.

 

       Những ai vượt khỏi buộc ràng,

       Thiện ác, bụi uế… không màng sầu bi.

       Kẻ ấy Ta gọi tức thì

       Bà-La-Môn có trường kỳ chính danh.

 

       Ai không uế, sống tịnh thanh

       Không gợn, như ánh trăng rằm sáng thay !

       Hỷ, hữu được đoạn trừ ngay.

       Bàn-Môn Ta gọi vị đây mới là.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  412

 

       Ai người hiểm lộ vượt qua

       Luân hồi, ác lộ, mê tà sân si

       Đến bờ bên kia tức thì

       Thiền tư, không dao động chi sớm chiều,

       Đoạn trừ nghi hoặc mọi điều

       An tịnh, không chấp trước nhiều trải qua.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí tức Bà-La-Môn.

 

       Dục vọng, tham ác không còn

       Xuất gia, vui sống đời không gia đình,

       Đoạn trừ dục & hữu tự mình

       Ta gọi kẻ ấy thực tình Bàn-Môn. 

 

       Nhân ách từ bỏ, không còn

       Vượt qua cả thiên ách không khó gì

       Đoạn trừ ách nạn mọi thì

       Và mọi hệ phược thoát ly dễ dàng.

       Kẻ ấy Ta gọi rõ ràng

       Chính danh Phạm-Chí tức Bàn-Môn đây.

 

       Lạc, bất lạc từ bỏ ngay

       Thanh lương, không y trú, đầy an nhiên

       Chiến thắng mọi thế giới liền,

       Anh hùng dũng mãnh khắp miền xông pha.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí tức Bà-La-Môn.

 

       Ai hiểu biết thật hoàn toàn

       Về sự sinh diệt các hàng chúng sinh,

       Không tham trước, diệt vô minh,

       Thiện Thệ, Giác ngộ đạt thành Biến Tri

       Ta mới gọi họ tức thì

       Bà-La-Môn, chính danh thì uy nghi.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  413

 

       Chỗ sở thủ không biết gì

       Thiên, Nhân, Càn-Thát-Bà chi mặc lòng

       Lậu hoặc được đoạn trừ xong

       Ứng Cúng, La-Hán viên thông tịnh hòa.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí tức Bà-La-Môn.

 

       Ai không chấp trước bảo tồn

       Đời sau, đời trướcvà còn đời nay

       Không chấp, không sở hữu rày

       Chính danh Phạm-Chí gọi ngay kẻ này.

 

       Ngưu Vương & bậc Tối Thượng đây

       Anh hùng, bậc Đại Sĩ đầy cao thâm

       Bậc chinh phục, bất động tâm

       Bậc Giác ngộ, tắm sạch tâm mê tà.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí, Bà-La-Môn phần.

 

       Ai biết đời trước, tiền thân

       Thấy được thiện & ác thú bằng tâm tư,

       Đạt đượcsinh diệt đoạn trừ

       Ta mới gọi với danh từ Bàn-Môn.

 

       Điều mà thế giới vẫn còn

       Gọi : ‘tên’,’gia tộc’ là thông danh, và

       Tục danh, nhiều chỗ khởi ra

       Lâu đời chấp trước, là tà kiến thôi !

       Kẻ ngu tự tuyên bố rồi

       Do sanh nên Phạm-Chí thời có ngay.

       Không phải do sinh đẻ này

       Mà gọi Phạm-Chí như vầy được đâu !

       Không phải sanh đẻ do vào

       Gọi Phi-Phạm-Chí làm sao đúng vầy !

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  414

 

       Chính do sự hành động này

       Được gọi Phạm-Chí, đủ đầy chính danh.

       Chính do hành động tạo thành

       Gọi Phi-Phạm-Chí rõ rành chỉ ra.

 

       Hành động làm ruộng, nông gia

       Công thợ, buôn bán hoặc là gia nô.

       Hành động trộm cướp, côn đồ

       Tế quan, Vua chúa đế đô cầm quyền,

       Hành động quân đội tự chuyên…

 

       Kẻ trí thấy hành động liền tự tri

       Như thật là như vậy, thì

       Thấy rõ lý duyên khởi tùy sở quan,

       Nghiệp dị thục biết rõ ràng

       Do nghiệp, luân chuyển đời hằng nổi trôi,

       Do nghiệp, con người luân hồi.

       Nghiệp đã trói buộc mọi thời chúng sanh.

 

       Như trục xe quay tự hành

       Do khổ hạnh, Phạm hạnh thanh tịnh này

       Tiết chế và chế ngự ngay

       Tác thành Phạm-Chí đủ đầy chính danh,

 

       Bàn-Môn như vậy tựu thành

       Mới thật tối thượng, tốt lành danh xưng.

       Ba Vệ Đà thành tựu chung

       Tái sanh đoạn diệt, vô cùng tịnh an.

 

       Va-Sết-Tha nên biết rằng

       Kẻ ấy được Phạm Thiên hằng ngợi ca,

       Và được Thiên Chúa Sắc-Ka

       Tức đức Đế Thích biết qua tận tường ”.

 *

*     *

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  415

 

          Được nghe đấng Pháp Vương giảng kỹ

          Hai Phạm-Chí  là Va-Sết-Tha

              Cùng chàng Pha-Rát-Va-Cha

       Liền đối trước đức Phật Đà thưa ngay :

 

          – “ Bạch Tôn Giả ! Vi diệu thay !

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

*

          Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn phân tách, trình bày

              Chúng con quy ngưỡng từ nay

       Quy y đức Phật, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận chúng con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung.

             Nguyện theo chân đấng Đại Hùng

       Nương tựa Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 98  :  VÀSETTHA  -  VÀSETTHA Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2022(Xem: 3405)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
09/04/2022(Xem: 5975)
Mục đích của cuộc thi giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các việc xảy ra trong đời sống xã hội hàng ngày, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ ứng dụng sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Các thể tài có thể gợi ý như là chuyện công ăn việc làm, chuyện gia đình, học đường, chuyện về đại dịch hay chuyện trong nhà ngoài phố.v.v.. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được cách ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày.
01/04/2022(Xem: 9265)
Nếu có những khúc ngâm đoạn trường trong văn học thi ca làm cho người đọc qua nhiều thế hệ trải mấy nghìn năm vẫn còn cảm xúc đòi đoạn thì Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc là hai khúc ngâm tiêu biểu trong văn chương Việt Nam; cũng như Trường Hận Ca, Tam Lại Tam Biệt và Tần Phụ Ngâm được xem là “tam bi hùng ký” trong văn chương Trung Quốc thời Hậu Đường. Người Việt yêu thi ca thường ưa chuộng dư âm cùng ý vị lãng mạn và bi tráng giàu kịch tính hơn là vẻ bi phẫn và hùng tráng của hiện thực máu xương trong thi ca đượm mùi chinh chiến. Tâm lý nghệ sĩ nầy giúp lý giải một phần câu hỏi còn nằm trong góc khuất văn học là tại sao cho đến nay, hơn cả nghìn năm sau, tác phẩm Tần Phụ Ngâm vẫn chưa có người dịch ra tiếng Việt.
20/03/2022(Xem: 3959)
Với tập sách nhỏ nầy – tác giả không hề nghĩ đó là công trình nghiên cứu; mà chỉ xin được gọi là nén tâm hương, là tấc lòng cảm cựu dâng lên anh linh của người thiên cổ - biểu tỏ sự ngưỡng mộ văn tài và xin được chia sẻ nỗi đau đời, đau người của tiền nhân và hậu học. Sỡ dĩ không gọi là công trình nghiên cứu về Nguyễn Du vì tôi không làm theo hệ thống chương mục của tổng thể tác phẩm, mà chỉ viết theo ngẫu cảm của người đọc đối với mỗi nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”, lại nữa; tôi cũng là một cá thể quanh năm đau yếu – khi viết đề tài này là tôi đang nằm tại chỗ, vì xẹp cột sống lưng và bao chứng bệnh khác – phải chăng là đồng bệnh tương lân???
20/03/2022(Xem: 6206)
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
24/02/2022(Xem: 8763)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
13/02/2022(Xem: 3493)
Gần đây khi nhận được những tập kỷ yếu về các chuyến hành hương (từ các địa điểm tâm linh) gửi tặng từ TT Thích Nguyên Tạng, một lần nữa tôi mới chợt nhận ra tại sao một người tu hay bất cứ một người phàm phu nào cũng cần phải cầu nguyện cho mình có đủ Tam Phước ( Phước vật - Phước đức và Phước Trí ). Trộm nghĩ khi có đủ tam phước rồi thì làm việc gì cũng thành tựu vì đã sử dụng đúng thái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống . Và hạnh phúc là mục đích chính của con người, tiêu biểu cho sự phát triển đầy đủ các đức tính đạo đức của con người ...Nhất là trong Triết lý Phật giáo, hạnh phúc là chủ đề rất quan trọng nghĩa là muốn có hạnh phúc thì phải có bình an ( vật chất lẫn tinh thần ) và nhất định là hạnh phúc này phải phát xuất từ giá trị cuộc sống với sự hoàn thiện nhân cách và luôn giữ 3 nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.
13/02/2022(Xem: 6230)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
31/01/2022(Xem: 5875)
Truyện này viết về một người anh, và nhiều phần là hư cấu. Nghĩa là, chỉ một phần có thực. Nhưng tôi không thể nào nói rõ là phần nào thực, phần nào hư. Nói rõ có khi lại hỏng. Đã viết truyện thì, chẳng tác giả nào nói rõ đâu. Ngay như nhan đề “Bên Trời Đại Lý” cũng thấy là bên kia sự thật rồi, vì Việt Nam mình làm gì có thị trấn Đại Lý, nơi sẽ là bối cảnh của truyện ngắn này. Nhưng, nếu nói thiệt ra là Chợ Lớn, thì lại trần gian quá, chẳng thơ mộng tí nào.
05/01/2022(Xem: 7829)
Khi khoa học ngày càng phát triển, con người càng rời xa tâm linh và phủ nhận tất cả những gì không dựa trên nền tảng khoa học. Tuy nhiên, thế giới tâm linh dù được khẳng định bởi người hữu duyên hoặc phủ nhận bởi người chưa đủ duyên tồn tại song song với thế giới vật chất. Sự nối kết tâm linh là một đề tài sôi nổi trong dòng chính cũng như trong cộng đồng tôn giáo. Trên thực tế, hiện tượng siêu nhiên vẫn là những điều huyền bí mà không phải bất kỳ ai cũng có thể trải nghiệm hay giải mã. Vì vậy, người có khả năng nối kết với thế giới tâm linh và cảm nhận được hiện tượng tâm linh càng trở nên đặc biệt dưới các trường hợp sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]