Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

19/05/202011:36(Xem: 10934)
139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


139. Kinh VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT

( Aranavibhanga sutta )

 

                     Như vậy, tôi nghe :                     

 

                  Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua        

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na             

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.    

          Tại đây, đấng Pháp Vương cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.  

 

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :  

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải đây

             ‘Vô Tránh Phân Biệt’ pháp này

       Các ông hãy lắng nghe vầy, nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.  

              Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 

 – “ Chớ hành trì dục lạc đầy dẫy ra

          Hạ liệt, phàm phu và đê tiện

          Không xứng bậc hiền thiện Thánh nhân,

              Không liên hệ mục đích cần.

       Và cũng chớ có tự thân hành trì

          Sự cực kỳ khổ hạnh, đau khổ  

          Không xứng chỗ bậc Thánh chánh chân 

              Không liên hệ mục đích cần,

 

       Hai cực đoan ấy phải cần bỏ đi.

          Có con đường Tám Chi Trung Đạo

          Đã được Ta hoàn hảo chứng tri

              Tác thành mắt & trí tức thì 

       Đưa đến an tịnh, liễu tri Niết bàn,

          Thắng tri và hoàn toàn giác ngộ,

          Nên biết chỗ chỉ trích, tán dương.

 

              Sau khi đã biết tán dương,

       Đã biết chỉ trích, nên thường hiểu thông

          Không tán thán và không chỉ trích

          Chỉ nên thích thuyết pháp thẳng ngay,

              Nên biết phán xét lạc này,

       Khi biết phán xét lạc này, chú tâm

          Vào nội lạc thâm trầm mọi mặt

          Không nói lời bí mật, dông dài

              Khi mặt đối mặt với ai,

       Không nên nói khiến cho ai mất lòng,

          Khi nói, không vội vàng, từng bước

          Chớ chấp trước ngôn ngữ địa phương,

              Chớ xa ngôn ngữ dùng thường,

       Đó là tổng thuyết Ta đương nói về

          Trong vấn đề ‘Vô tránh phân biệt’.

 

          Khi nói đến hạ liệt, phàm phu,

              Dục lạc, đê tiện, si ngu,

       Chớ hành trì đến cho dù ở đâu,

          Không xứng bậc thanh cao Thánh tuệ

          Không liên hệ mục đích, cũng như

              Không nên hành trì khư khư

       Tự kỷ khổ hạnh, phạm trù khổ đau,

          Không xứng vào bậc Thánh, mục đích…

          Do duyên gì chắc nịch nói vầy ?

              Phàm lạc gì liên hệ ngay

       Với dục, nhưng đam mê đầy trải qua

          Loại hỷ là hạ liệt, đê tiện

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Pháp như vậy là khổ đau,

       Ưu não, nhiệt não, phiền lao, đạo tà

          Phàm lạc gì kết qua với dục

          Nhưng không chút đam mê trầm phù,

              Loại hỷ hạ liệt, phàm phu,

       Đê tiện, không xứng thuần từ Thánh nhân,

          Không liên hệ đến phần mục đích,

          Pháp như vậy không thích khổ đau,

              Không có ưu não, phiền lao,

       Vô não – chánh đạo thuộc vào lạc đây.

 

          Tự kỷ khổ hạnh đầy đau khổ 

          Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào,

       Hành trì pháp ấy khổ đau mọi bề,

          Ưu & nhiệt não, thuộc về tà đạo.

          Khổ hạnh nào khổ não hành trì

              Không xứng bậc Thánh nghiêm uy.

 

       Không liên hệ mục đích gì ở đây  

          Pháp như vầy không có đau khổ

          Không ưu não, nhiệt não, phiền lao

              Pháp ấy chánh đạo thuộc vào.

 

       Khi nói đến : ‘Chớ dấn sâu hành trì

          Dục lạc gì hạ liệt, đê tiện,

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào.

       Cũng không nên tự dấn sâu hành trì

           Tự kỷ khổ hạnh chi, đau khổ

           Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

               Không liên hệ mục đích nào’.

       Do duyên ấy, được nói vào như trên.  

 

          Khi nói lên : ‘Hai cực đoan đó

          Phải từ bỏ, vì có con đường

              Trung Đạo – đã được Pháp Vương &

       Thế Tôn giác ngộ, đảm đương tác thành

          Về mắt và tác thành về trí,

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn,

       Duyên gì được nói liên quan như vầy ?

          Đường Thánh này tám ngành diễn tiến :

          Chánh tri kiến rồi chánh tư duy,

              Chánh ngữ, chánh nghiệp đồng thì

       Chánh mạng, chánh tinh tấn tri hành thường,

          Chánh niệm, chánh định – đường chánh đó.

 

          Khi nói đến : ‘Từ bỏ cả hai

              Cực đoan ấy’, vì có ngay

       Con đường Trung Đạo Như Lai đã hành,

          Đã giác ngộ, tác thành mắt, trí

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn.

       Do duyên ấy, được rõ ràng nói ra.  

 

          Khi nói là : ‘Nên biết tán thán,

          Biết chỉ trích’. Biết tán thán rồi

              Và khi biết chỉ trích rồi

       Thì không chỉ trích, không lời tán dương,

          Chỉ nên thường thuyết pháp có lợi,

          Do duyên gì nói tới như vầy ?

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Thế nào là tán thán đầy hân hoan ?

 

          Sao nói sang chỉ trích điều đó

          Nhưng không có thuyết pháp mọi thời ?

             Vị ấy chỉ trích số người

       Bảo : ‘Những ai tìm thấy nơi lạc này,

          Liên hệ ngay với dục, mê mẩn

          Loại hỷ dẫn hạ liệt, phàm phu,

              Đê tiện, không xứng Thánh từ,

      Không liên hệ mục đích’, như vậy thời

         Tất cả người như vậy đau khổ,

         Có ưu não, nhiệt não, phiền lao

             Như vậy tà đạo thuộc vào.

 

       Trái lại, không đam mê sâu đường tà

          Hạ liệt, đê tiện và phàm tục,

          Không xứng bực Thánh hiền vân… vân…

              Không liên hệ mục đích cần

       Thì không đau khổ, không phần phiền lao

          Không ưu não, thuộc vào chánh đạo’.

 

          Hoặc nhiên hậu vị ấy ở đây  

              Chỉ trích một số người vầy :

      ‘Những ai mê đắm, thường hay hành trì

          Tự kỷ khổ hạnh, thì không xứng

          Bậc Thánh, không tương ứng liên quan

              Mục đích. Tất cả họ toàn

       Có sự đau khổ, mọi đàng phiền lao,

          Có ưu não, thuộc vào tà đạo.

          Bằng trái lại, chánh đạo thuộc về.

              Trài ngược với các vấn đề     

       Ở trên nói đến mọi bề khác đi.

          Hoặc vị ấy một thì chỉ trích

          Một số người, nói khích bác là :

             ‘Những ai chưa đoạn tận qua

       Hữu kiết sử, họ đều là khổ đau,

          Có phiền lao, ưu não, nhiệt não,

          Thuộc tà đạo. Hoặc là vị đây

              Tán thán một số người vầy :

      ‘Những ai đã đoạn tận rày cho xong

          Hữu kiết sử, họ không đau khổ,

          Không phiền lao, hết chỗ não ưu,

              Thuộc chánh đạo. Các Tỳ-Khưu !

       Là có chỉ trích, có điều tán dương,

          Nhưng không có tận tường thuyết pháp.

 

          Thế nào có thuyết pháp, nhưng mà  

              Không có tán thán cùng là

       Không có chỉ trích ? Nói ra như vầy :

         ‘Bất cứ ai tìm thấy lạc đó,

          Liên hệ với dục, có mê say,

              Hỷ hạ liệt, đê tiện này

       Phàm phu, không xứng bậc Thầy Thánh nhân,

          Không liên hệ về phần mục đích,

          Những vị ấy trầm nịch, khổ đau

              Có ưu não, có phiền lao

       Thuộc tà đạo’. Vị ấy mau thuyết về :

         ‘Sự đam mê là pháp đau khổ

          Có phiền lao, ưu não, đạo tà’.

 

              Vị ấy cũng thuyết pháp ra : 

      ‘Không đam mê cũng chính là pháp duyên

          Không đau khổ, không phiền, nhiệt não, 

          Không ưu não, chánh đạo thuộc nơi’.

              Vị ấy không nói mọi thời :

      ‘Tự kỷ khổ hạnh những người đam mê

          Là không hề xứng bậc Thánh thế !

          Không liên hệ mục đích, khổ đau,

              Ưu não, nhiệt não, phiền lao,

       Thuộc tà đạo. Chỉ trước sau thuyết là

         ‘Sự đam mê chính là tà loại’.

 

          Và ngược lại, không nói vấn đề 

             ‘Những ai không có đam mê…

       Không khổ, chánh đạo thuộc về ở đây’.

          Và vị này chỉ thuyết pháp, bảo :

         ‘Sự an hảo không đam mê này

              Là không đau khổ dằng dai

       Không ưu & nhiệt não, không rày phiền lao,

          Thuộc chánh đạo’. Rồi sau vị ấy  

          Không có nói đại loại như vầy :

 

             ‘Những ai chưa đoạn tận ngay

       Hữu kiết sử, những vị này đều qua

          Sự khổ đau, có ra ưu não,

          Có nhiệt não và có phiền lao’.

 

              Chỉ thuyết pháp, nói như sau : 

      ‘Khi hữu kiết sử chưa mau diệt trừ

          Thì hữu chưa đoạn trừ, diệt tận’.

          Vị ấy vẫn không nói : ‘Những ai

              Đã diệt hữu kiết sử này,

       Họ không đau khổ, không rày phiền lao’…

          Vị ấy thuyết pháp vào điều ấy :

         ‘Hữu kiết sử cả thảy diệt rồi,

               Hữu được đoạn tận tức thời’.

       Các Tỷ Kheo ! Như vậy nơi điều này

          Là không khen, không hay chỉ trích,

          Chỉ thuyết pháp nêu ích lợi ra.

 

              Khi nói : ‘Biết tán thán, và  

       Nên biết chỉ trích’, chỉ là thuyết thôi.

          Chính do duyên này thời nói vậy.

          Khi nói : ‘Phải biết phán xét thầm

              Về lạc, thì nên chú tâm

       Vào nội lạc. Duyên gì nhằm nói đây ?

 

          Chúng Tăng này ! Năm dục trưởng dưỡng.

          Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì ?

              Các sắc pháp do mắt ni

       Nhận thức khả ái, mọi thì đáng yêu

          Liên hệ điều dục và hấp dẫn.

          Các tiếng dẫn nhận thức do tai

              Hương do mũi nhận thức ngay,

       Vị do lưỡi nhận thức đầy thích tăng,

          Xúc do thân cảm giác, khả hỷ,

          Khả ái và khả ý, liên quan

              Đến dục, hấp dẫn vô vàn,

       Năm dục trưởng dưỡng mọi đàng là đây.

 

          Tỷ Kheo này ! Do duyên năm dục

          Trưởng dưỡng ấy tiếp tục khởi lên

              Lạc và hỷ được gọi tên

       Là dục & uế lạc tạo nên mọi thì

          Phàm-phu-lạc hay phi-thánh-lạc.

          Như Lai nói loại lạc như vầy

              Không nên thực hành hằng ngày

       Không nên tu tập, chớ rày mãn sung,

          Nên sợ hãi vô cùng lạc đó.

          Chúng Tăng ! Có tinh tấn hành trì 

              Ly dục, bất thiện pháp ly,

       Chứng đạt, an trú vào chi Nhất Thiền

          Một trạng thái an nhiên hỷ lạc

          Ly dục sanh, có các tứ, tầm.

              Rồi đình chỉ tứ và tầm

       Chứng, trú Đệ nhị Thiền tâm an lành,

          Một trạng thái định sanh vui thực,

          Tầm & tứ dứt, nội tĩnh nhất tâm

              Chứng, trú Đệ tam Thiền tâm,

       Rồi Thiền đệ tứ chứng tầm, trú an.

          Gọi rõ ràng là xuất-ly-lạc,

          Viễn-ly-lạc, an-tịnh-lạc, và 

              Giác-ngộ-lạc. Thì Như Lai

       Bảo thực hành loại lạc này cần chuyên,

          Nên tu tập, khiến nên sung mãn,

          Không sợ hãi. Hoặc khoản nói về :

             ‘Phải nên biết phán xét về

       Lạc ấy’. Khi phán xét về lạc xong

          Chú tâm trong nội lạc ở đấy

          Chính do duyên như vậy nói điều

              Phán xét về lạc sớm chiều

       Không khiếp vía, không sợ nhiều trải qua.

 

          Khi nói là : ‘Không nên có tật 

          Nói lên lời bí mật với ai,

              Khi mặt đối mặt với ai

       Không nói lời lẽ khiến ai mất lòng.

 

          Do duyên gì nói trong ý đó ?

          Các Tỷ Kheo ! Khi có biết qua

              Một lời bí mật nói ra

       Không thực, hư vọng. Cùng là điều đây

          Không liên hệ đến ngay mục đích

          Để lợi ích, chớ có nói lời

              Bí mật ấy ở mọi thời.

       Nếu lời bí mật là lời thực chân

          Không hư vọng, nhưng phần đáng kể

          Không liên hệ mục đích, thì nên

              Đừng nói lời bí mật trên.

       Còn nếu là thực, có liên hệ rồi

          Đến mục đích, tùy thời mà nói.

 

          Cũng như vậy, khi nói với ai 

              Một lời mất lòng, xét soi

       Để không nói hoặc tùy thời nói lên.

 

          Khi nói đến : ‘Hãy nên chậm rãi 

          Nói từ từ, đừng mãi vội vàng’.

              Do duyên gì được nói sang ?

       Ở đây, nếu nói vội vàng, thì thân

          Bị mệt mỏi, tâm thần tổn hại,

          Tiếng tổn hại, cổ họng đau khan,

              Lời nói một người vội vàng

       Không được hiểu, không rõ ràng nêu lên.

 

          Khi nói đến : ‘Chớ nên chấp trước

          Địa-phương-ngữ khi được nghe qua,

              Nhưng cũng chớ đi quá xa

       Ngôn ngữ thường nhật chúng ta hay dùng.

          Do duyên gì nói chung như thế ?

          Thế nào kể chấp trước ở đây

              Về địa phương ngữ như vầy

       Quá xa ngôn ngữ ta hay dùng nhiều ?

          Các Tỷ Kheo ! Trong nhiều quốc độ

          Người ta có tiếng nói khác nhau,

              Chữ viết cũng lại khác nhau.

       Có người chấp thủ chấp vào điều đây, 

          Nói như vầy : ‘Ngôn ngữ, chữ viết

          Chỉ như vậy mới thiệt đúng rồi,

              Ngoài ra hư vọng mà thôi !

       Như thế, họ chấp trước nơi điều là

          Địa phương ngữ, quá xa ngôn ngữ

          Mà căn bản họ tự dùng thường.

 

              Thế nào không chấp trước thường

     Tiếng thường dùng, tiếng địa phương hằng ngày ?

          Các người này  biết các quốc độ

          Những tiếng có, chữ viết khác xa.

              Người không chấp thủ nói là :

      ‘Các vị ấy y cứ qua thế này,

          Đã giải thích như vầy’. Như thế

          Là không để chấp trước trói mình,

              Không xa ngôn ngữ thường tình,

       Chính điều đó là duyên sinh chấp trì.

 

          Ở đây, phàm lạc gì liên hệ

          Với dục để có hỷ đam mê 

              Hạ liệt, đê tiện đáng chê

       Không xứng bậc Thánh, không hề liên quan

          Đến mục đích. Pháp toàn đau khổ

          Có ưu não, nhiệt não, phiền lao,

              Pháp này tà đạo thuộc vào

       Là pháp hữu tránh, tránh mau tức thì.

 

          Còn trái lại, các Tỳ-Kheo Chúng !

          Phàm lạc gì mà chúng cận kề

              Với dục, nhưng không đam mê

       Loại hỷ hạ liệt và đê tiện này

          Phàm phu đầy, không xứng Thánh tịch,

          Có liên hệ mục đích trước sau,

              Pháp ấy không có khổ đau,

       Không có ưu não, phiền lao – thuộc về   

          Chánh đạo. Pháp thuộc về vô tránh.

 

          Phàm tự kỷ khổ hạnh hành trì, 

              Đau khổ, không xứng Thánh uy,

       Không liên hệ mục đích gì thanh cao

          Như vậy có phiền lao, ưu não,

          Thuộc tà đạo. Hữu tránh pháp này.

 

              Trái lại với những điều đây

       Thuộc pháp vô tránh, hành ngay pháp này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây Trung đạo

          Được Phật Bảo giác ngộ, tác thành,

              Về mắt, về trí tác thành

       Đưa đến thắng trí, tịnh thanh, Niết bàn.

          Pháp hoàn toàn không có đau khổ

          Không ưu não, phiển não lầm sai

              Chánh đạo, vô tránh pháp này.

 

       Các Tỷ Kheo ! Còn ở đây nói về

          Pháp tán thán hoặc về chỉ trích

          Nhưng không thích thuyết pháp thanh cao,

              Pháp có ưu não, khổ đau

       Nhiệt não, tà đạo thuộc vào dạng đây,

          Nên pháp này là ‘pháp hữu tránh’.

 

          Trái lại, ‘pháp vô tránh’ hiểu tường :

              Pháp không chỉ trích, tán dương

       Chỉ có thuyết pháp, pháp thường vui an,

          Thuộc chánh đạo, mọi đàng không khổ.

 

          Còn pháp có dục lạc, chính là 

              Uế lạc, phàm phu lạc, và

       Phi thánh lạc, pháp toàn là khổ đau,

          Có ưu não, thuộc vào ‘hữu tránh’.

 

          Ngược lại, pháp ‘vô tránh’ này là  

              Xuất ly lạc, lạc rời xa,

       An tịnh lạc, chánh đạo là pháp đây.

 

          Chúng Tăng này ! Lời nói bí mật  

          Không chân thật, hư vọng, tào lao

              Không liên hệ mục đích nào

       Pháp có nhiệt não, khổ đau, đạo tà,

          Pháp này là ‘hữu tránh’ được gọi.

 

          Còn ngược lại, ‘vô tránh’ pháp này 

              Lời nói bí mật ở đây

       Chân thật, không vọng, không dây dưa gì

           Đến mục đích, pháp ni đau khổ,

           Thuộc tà đạo, ưu não, phiền lao.

               Còn lời nói mất lòng nào

       Khi mặt đối mặt, thuộc vào vọng ngôn,

          Không chân thật, ẩn tồn hư vọng

          Không liên hệ nhanh chóng mục tiêu,

              Có ưu não, đau khổ nhiều

       Là pháp ‘hữu tránh’, pháp nêu đạo tà.

 

          Ngược lại là pháp ‘vô tránh’ đó  

          Lời chân thật, không có khổ đau

              Thuộc chánh đạo, không phiền lao.

 

       Chúng Tăng ! Còn những lời nào nói ra   

          Một cách vội vàng và pháp đó                

          Có ưu não và có phiền lao

              Thuộc tà đạo, có khổ đau

       Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào diện đây.

 

          Ngược điều này là pháp ‘vô tránh’

          Lời nói lên một cách từ từ

              Không đau khổ, không ưu tư,

       Thuộc chánh đạo, pháp an như thuận hòa.

 

          Các Tỷ Kheo ! Người mà chấp cự

          Địa phương ngữ và đi quá xa

              Ngôn ngữ nơi mà người ta

       Vẫn thường sử dụng trải qua hằng ngày.

          Và pháp này đau khổ, ưu não,

          Thuộc tà đạo, nhiệt não, phiền lao

              Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào.

 

       Ngược lại, ‘vô tránh’ pháp nao thuộc về   

          Không chấp nê vào địa phương ngữ,

          Khi đi quá ngôn ngữ thường dùng,

              Không đau khổ, và nói chung

       Không có ưu não, vô cùng chánh chân

          Là pháp phần ‘vô tránh’ an lạc.

 

          Do vậy, các Phích-Khú ! Các ông

              Phải tự tu học, hiểu thông :

       Chúng ta phải biết nằm lòng tế thô

          Hữu tránh pháp cùng Vô tránh pháp,

          Sau  khi biết hai pháp này thì

              Chúng ta sẽ cố hành trì

       Về ‘Vô tránh đạo’ mọi thì trải qua.

 

          Các Tỷ Kheo ! Thiện gia nam tử

          Tu-Bồ-Đề tức Sú-Phú-Ti    (*) 

              Vô tránh pháp đã hành trì

       Một cách tinh tấn, mọi thì vui an ”.

 

          Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng

          Pháp viên mãn, vi diệu lạc an

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 139 :   VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT   

–  ARANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

 

 

 ____________________________

 

 (*) : Tôn-giả Tu-Bồ-Đề  –  Subhuti  – là vị trong Thập Đại Đệ Tử

         của Đức Phật, là bậc Giải Không đệ nhất. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2022(Xem: 2624)
Mùa hè năm 2000 tôi dẫn hai cậu con trai một lớn, một bé đi nghỉ hè tại một nơi thật đặc biệt tại miền Nam nước Pháp. Nơi có những khu vườn thoai thoải trồng nho bát ngát và sản xuất rượu vang Bordeaux nổi tiếng. Nhưng chúng tôi không đi tìm rượu nho, mà tìm Làng Hồng (Plumvillage) của Sư Ông “Thiền Chánh Niệm“ để dự khóa tu một tuần.
14/07/2022(Xem: 5774)
Bảo Lạc tăng nhân quê Quảng Nam Xuất gia Linh Ứng dưỡng chân tâm Tinh cần sớm tối nghiên kinh kệ Dõng mãnh đêm ngày thắp tuệ ân Nhật Bản du phương tìm mối đạo Úc Châu trụ xứ dựng đàn tràng Khai thông đạo mạch rền âm pháp Hội Chủ bi nguyền hạnh đức lan..!
26/06/2022(Xem: 3036)
Thật là một đai duyên trong buổi sáng thỉnh chuông khuya ngày 25/7/2022, TT Thích Nguyên Tạng, Trụ trì Tu Viện Quảng Đức đã bắt đầu khai Kinh Đại Bảo Tích, một bộ kinh mà con đã trân trọng kính thỉnh từ 2009 gồm đầy đủ 9 tập. Thế nhưng có lẽ con chưa đủ căn cơ để nghe và thâm nhập dù rằng vào lúc ấy đã có CD Và MP3 đọc tụng đầy đủ pháp hội vậy mà con vẫn không thể nào khế hợp. Và bộ kinh ấy chỉ nằm trong tủ thờ của con đến nay …..Gần đây bỗng nhiên sau mỗi lần công phu dường như có một chút gì thôi thúc con và con phát nguyện sẽ đọc tụng Bộ Kinh này cho đến khi nào thâm nhập được mới thôi thì dường như Chư Thiên và Long Thần Hộ Pháp đã báo tin vui …
26/06/2022(Xem: 3292)
Từ lâu ta đã được nghe từ Đức Phật dạy: “Ít ham muốn, bằng lòng với một nếp sống giản dị và lành mạnh để có thì giờ sống sâu sắc từng phút giây của sự sống hàng ngày, có khả năng hiểu biết, thương yêu, chăm sóc và làm hạnh phúc cho những người chung quanh, đó là bí quyết của hạnh phúc chân thật”.
23/06/2022(Xem: 2769)
Trong lúc soạn lại các quyền tập đã ghi chép trong lúc mới bắt đầu học Phật, tôi gặp lại một bài viết của Thiền Sư Zengyan Guo Jun (người Canada Trưởng trung tâm Drama Dam Retreat / Pine Bush/ New York hiện trụ trì tại Singapore) tựa đề “Chan Health- Chan Mind “ chợt một chút mừng vui vì thấy từ nhiều năm về trước mình đã có một chút am hiểu về Vũ trụ thiên nhiên, Thực tại và Con người.
20/06/2022(Xem: 3008)
Kính dâng đến vị Thầy mà con quý kính sau nhiều năm cộng tác chung trên trang nhà Quảng Đức, Chủ biên, Trụ trì Tu Viện Quảng Đức kiêm Tổng Thư ký hội đồng điều hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan: TT Thích Nguyên Tạng. Dường như vận mệnh tôi gắn liền với chữ Canh cô, Mậu quả lại mang thân người nữ nên chưa bao giờ tôi được kề cận nương tựa vào sự chỉ giáo thật kỹ lưỡng của một bậc Đạo Sư dù rằng tôi đã có một Sư Phụ Viên Minh tuyệt vời và quý Sư Thúc danh tăng, nhưng quý Ngài vẫn cách xa vạn dặm nên trong suốt gần 9 năm trường chỉ hội ngộ hai lần còn thì chỉ qua online thăm hỏi vắn tắt, những buổi trà đạo, những bài pháp thoại để rồi tự mình học lấy điều hay lẽ phải và chiêm nghiệm thêm thôi.
30/04/2022(Xem: 2801)
Chúng tôi là những nữ sinh vào lớp đệ thất khi trường Lê Quí Đôn Nha Trang mới mở. Thầy Võ Hồng dạy hai môn Vạn vật và Việt văn, Thầy cũng là người chỉ đạo coi sóc lớp tôi. Thầy thường chạy chiếc velo đen, cao người, thật hiền và rất tế nhị. Thầy biết hết lý lịch và tánh tình từng học sinh trong lớp.
26/04/2022(Xem: 4680)
Lão trượng qua cầu Hoài sao chẳng tới Chân vẫn bước mau Tâm như hư thái
12/04/2022(Xem: 3353)
Môn học về tiếng mẹ đẻ của một dân tộc là giá trị tiêu biểu về tính nhân văn của con người và đất nước đó. Thử mở chương trình học về ngôn ngữ bản xứ của các nước có gia tài đồ sộ về ngôn ngữ và văn chương sẽ thấy rõ ràng sự nhất quán về danh xưng của môn học tiếng mẹ đẻ từ cấp tiểu học đến đại học của xứ đó: Trung Văn (中文), Anh Văn (English), Pháp Văn (Française)... Việt Văn (Ngữ Văn)! Các danh xưng Trung Văn, Anh Văn, Pháp Văn… đều có lịch sử suốt nhiều trăm năm; chỉ riêng lịch sử Ngữ Văn thì phải tính bằng số chục.
11/04/2022(Xem: 3333)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]