Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

107. Kinh Ganaka Moggallàna

19/05/202011:25(Xem: 8803)
107. Kinh Ganaka Moggallàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


107. Kinh  GANAKA MOGGALLÀNA

( Ganakamoggallàna sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ       

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua

              Đông Viên – Púp-Bá-Ra-Ma  (1)

       Mi-Ga-Ra-Má-T ú-Pa-Sá-Đà  (2)

        ( Cũng chính là Giảng đường Lộc Mẫu )

          Tại đây Phật thuyết giáo trải qua.

 

              Có một Bàn-môn tên là

       Ông Ga-Na-Ká Mốc-Ga-La-Nà

          Đi đến chỗ Phật Đà trú ngụ,

          Sau khi đến, ông tự nói lên

              Lời thăm hỏi xã giao liền

       Sau đó ngồi xuống một bên Phật Đà.

 

          Rồi Bàn-môn thưa qua Giác Giả :

 

    – “ Thưa Tôn Giả Kiều Đàm ! Ví vầy

              Tại lâu đài Lộc Mẫu này

       Có thể sẽ thấy được ngay tình hình

          Một học tập, công trình tuần tự,

          Một đạo lộ tuần tự thanh cao,

              Là những tầng cấp trước sau

       Dẫn đến tầng thượng, nơi cao nhất nhà

    ______________________________

 

(1) : Pubbaràma : Đông Phương Tự tại thành Xá-Vệ (Savatthi ) do

      Nữ đại thí chủ Visakhà dâng cúng cho Phật và Chúng Tăng.

(2) : Migaramatupasada : Lộc Mẫu giảng đường.  

 

          Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Cũng vậy

          Với các Bàn-môn ấy hàng ngày

              Chúng ta cũng được thấy ngay

       Một học tập tuần tự đầy lòng tin,

          Một công trình, đạo lộ tuần tự

          Tức là sự học hỏi Vệ-Đà.

              Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Người bắn cung giỏi trải qua tự mình

          Được thấy một công trình tập luyện

          Một đạo lộ về thiện xạ này,

              Tức nghệ thuật bắn cung đây.

 

       Chúng con cũng vậy, thưa Ngài Thích Ca !

          Những người sống nghề là toán số

          Được thấy chỗ học tập, công trình,

              Đạo lộ tuần tự của mình

       Tức là toán số. Sự tình diễn ra

          Thưa Ngài Gô-Ta-Ma ! Hoặc giả

          Dạy người đệ tử cả mọi phần

              Con bắt người ấy đếm dần   

       Một, một lần, hai, hai lần, rồi ba,

          Ba lần và bốn, bốn lần vậy  

          Năm, năm lần rồi sáu, sáu lần,

              Bảy, bảy lần, tám, tám lần,

       Chín, chín lần, mười, mười lần… thật chăm.

          Bắt đếm tới một trăm như thế.

 

          Còn thứ đệ, thưa Ngài Thích Ca !

              Ngài có thể trình bày qua

       Trong Pháp và Luật sâu xa của Ngài

          Có phải đây cũng có tuần tự

          Về học tập, tuần tự công trình,

              Tuần tự đạo lộ cao minh ? ”.

 

 – “ Này Bàn-môn ! Có thể trình bày ngay

          Trong Pháp và Luật này có sự

          Một tuần tự học tập, công trình,

              Tuần tự đạo lộ quang minh.

       Như người huấn luyện ngựa tinh xảo này

          Khi có con ngựa hay, hiền thiện

          Trước tiên luyện cho nó quen dần

              Việc mang yên, cương trên thân

       Và các hạnh khác dần dần quen ra.

 

          Này ông Bà-La-Môn ! Cũng vậy

          Khi Như Lai nhận thấy người nào

              Đáng được điều phục, dồi trau,

       Trước tiên huấn luyện trước sau như vầy :

 

    – “ Hãy đến đây, Tỷ Kheo ! Cố gắng 

          Giữ giới hạnh nghiêm cẩn đêm ngày,

              Chế ngự trong Giới bổn này,

       Oai nghi chánh hạnh đủ đầy, uy nghi.

          Thấy hiểm nguy những lỗi nhỏ nhặt,

          Các học giới học tập, thọ trì ”. 

              Khi vị Tỷ Kheo mọi thì

       Chế ngự, giữ giới uy nghi một niềm

          Với chế ngự tinh nghiêm giới bổn

          Đầy đủ vốn chánh hạnh, oai nghi,

              Đồng thời thấy sự hiểm nguy

       Trong những lỗi nhỏ, thọ trì vâng theo

          Các học-giới Tỷ Kheo phải có,

          Ta mới dạy tiếp họ như vầy :

        – “ Này Tỷ Kheo ! Hãy đến đây,

       Các căn hãy hộ trì ngay mọi bề : 

          Mắt thấy sắc không hề nắm giữ

          Tướng chung, riêng. Những thứ nguyên nhân

              Do không chế ngự nhãn căn

       Khiến tham ái, ưu bi… hằng khởi lên,

          Ác bất thiện pháp liền khởi quấy 

          Nguyên nhân ấy tự chế ngự đi.

              Hộ trì con mắt mọi thì

       Sự hộ trì mắt thực thi đêm ngày.

 

          Tiếng do tai, hương từ mũi ngửi,

          Vị do lưỡi, cảm xúc do thân,

              Ý nhận thức các pháp trần,

       Phải không nắm giữ tướng phần chung, riêng  

          Do những nguyên nhân gì, từ đó

          Khiến không có chế ngfự lục căn,

              Tham ái, ưu bi… mọi phần   

       Ác bất thiện pháp rần rần khởi lên.

          Nguyên nhân trên, vị ấy chế ngự 

          Thưc hành sự hộ trì lục căn. 

 

              Này Bà-La-Môn ! Sau phần

       Tỷ Kheo hộ trợ các căn trong ngoài

          Thì Như Lai mới dạy thêm nữa :

 

     – “ Này Tỷ Kheo ! Mỗi bữa khi ăn

              Hãy tiết độ trong uống ăn,

       Chân chánh giác sát món ăn khi dùng

          Không để cùng vui đùa, mê đắm,

          Không phải lắm trang điểm cầu kỳ,

              Chỉ để thân này duy trì

       Khỏi bị gia hại, chấp trì trang nghiêm

          Về Phạm hạnh cho kiêm toàn cả.

          Nghĩ : ‘Như vậy ta đã diệt đi

              Các cảm thọ cũ, đồng thì

       Không cho khởi cảm thọ chi mới nào

          Sẽ không phạm lỗi nào như trước,

          Sống sẽ được an ổn mọi thì ”.

 

              Này Bà-La-Môn ! Sau khi

       Tỷ Kheo tiết độ trong khi ăn vầy

          Thì Như Lai dạy thêm vị ấy :

 

    – “ Tỷ Kheo ! Hãy cảnh giác chú tâm

              Ban ngày, trong khi kinh hành,

       Trong khi tĩnh tọa, âm thầm gột đi

          Khỏi tâm trí pháp gì chướng ngại.

          Ban đêm, lại tinh tấn hành trì

              Trong khoảng canh đầu trở đi,

       Đến canh giữa hãy tùy nghi đi nằm

          Nằm xuống nhằm phía hông bên phải

          Dáng nằm ấy như sư tử vương

              Chân gác trên chân, tinh tường

       Chánh niệm tỉnh giác, niệm thường hướng ngay

          Đến lúc sẽ ngồi ngay lên lại.

          Canh cuối, khi thức dậy xong rồi

              Tiếp tục kinh hành và ngồi

       Gột sạch chướng ngại pháp nơi tâm mình ”.

 

          Này Bàn-Môn ! Hành trình sau đấy

          Như Lai dạy vị ấy thêm rằng :

              Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm

       Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền

          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới

          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm

              Hay khi co duỗi tay chân

       Mặc y, đi bát  hay cần uống ăn          

          Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác         

          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình

              Như vậy Tỷ Kheo tâm minh

       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thẳng ngay.

 

          Này Bàn-Môn ! Như Lai sau đấy

          Dạy vị ấy tìm chỗ lặng yên

              Như rừng tĩnh mịch, lâm viên

       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma.

          Thời ngọ thực đã qua, rửa bát

          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng

              An trú chánh niệm, lâng lâng

       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham

          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót

          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng.

 

              Từ bỏ hôn trầm, thụy miên

       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm

          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng

          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên

              Gột rửa chúng, được an nhiên

       Từ bỏ trạo cử thì liền tịnh thân

          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự

          Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm

              Gột rửa tham ái, hận sân

       Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.

 

          Ta lại dạy Tỷ Kheo mãi miết

          Thực hành thiệt chân chánh, tinh cần

              Chừng nào khi quán tự thân      

       Với năm Triền Cái phải cần xả ly

          Đã xả ly, nên chi hoan hỷ

          Do hoan hỷ, tâm được khinh an  

              Lạc thọ sinh do khinh an

       Đạt được như thế, tâm an định liền

          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục

          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền

              Trạng thái hỷ lạc tự tâm

       Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên

 

            Này Bàn-Môn ! Căn nguyên tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Diệt Tầm, diệt Tứ được yên

       Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai

          Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ

          Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm.

 

              Lại ly hỷ trú xả thầm,

       Chánh niệm tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên

              Chứng và an trú Tam Thiền

       Rồi xả lạc, xả khổ liền, Tỷ Khưu

          Diệt hỷ ưu cảm thọ trước cũ

          Chứng, an trú vào Đệ Tứ Thiền

              Không khổ không lạc, an nhiên

       Xả niệm thanh tịnh, tâm yên chẳng chầy.

 

          Bàn-Môn này ! Với những Phích-Khú 

          Thuộc hàng ngũ bậc Hữu-học nào

              Tâm chưa thành tựu, cần cầu

       Vô thượng an tịnh, xua bao ách triền.

          Đó là sự hiện tiền giảng dạy

          Đối với những vị ấy mọi điều.

              Còn với những vị Tỷ Kheo

       Hàng La-Hán, các lậu đều dứt nhanh

          Các việc cần, thực hành hoàn tất

          Gánh nặng đặt xuống, nhẹ thênh thang,

              Lý tưởng thành đạt rõ ràng,

       Hữu kiết sử đã hoàn toàn diệt tan,

          Chánh trí sang chánh niệm tỉnh giác ”.

 

          Nghe lời giảng Đại Giác Phật Đà

              Bàn-Môn Mốc-Gá-La-Na

       Tức Ga-Na-Ká hỏi sang vấn đề :

    – “ Khi nghe về những điều Tôn Giả  

          Gô-Ta-Ma khuyến hóa như vầy,

              Tận tình giảng dạy như vầy,

       Tất cả đệ tử của Ngài phải chăng

          Đều tự thân chứng được cứu cánh

          Đích Niết Bàn bậc Thánh cả rồi ?

              Hay chỉ một số chứng thôi ? ”. 

 

 – “ Bàn-Môn ! Đệ tử Ta nơi điều này 

          Được Như Lai khuyến hóa, dẫn dắt

          Một số đắc Niết Bàn viên thông

              Còn một số khác thì không ”.

 

 – “ Thưa Ngài ! Nhân, duyên gì trong việc này

          Khi ở đây Niết-bàn có mặt

          Và có mặt con đường minh quang

              Đưa đến cứu cánh Niết-bàn,

       Có mặt Tôn Giả là hàng Đạo Sư,

          Mà đệ tử Ngài như vừa kể

          Được thứ đệ khuyến hóa, giảng bày

              Một số chứng Niết-bàn ngay,

       Còn sao số khác không rày chứng xong ? ”.    

 

    – “ Bàn-Môn ! Trong việc này ta hỏi                                 

          Nếu kham nhẫn, hãy nói ra mau.

              Bàn-Môn ! Ông nghĩ thế nào ?

       Ông có biết rõ đường nào đi qua

          Thành Vương Xá – Ra-Cha-Ga-Há ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Con biết rành mà ! ”. 

 

        – “ Bàn-Môn ! Nghĩ sao chuyện là

       Có người muốn đến Ra-Cha-Ga-Hà,

          Đến hỏi qua ông về đường ấy,

          Ông đáp lại thẳng vào vấn đề  :

             ‘Đường đến Vương Xá nhiêu khê

       Ông hãy đi thẳng đường về hướng Đông 

 

          Ta dặn ông : Trải qua nhiều dặm,

          Sau bao dặm, sẽ thấy một làng

              Có tên thế này rõ ràng.

       Ông hãy đi tiếp thời gian khá dài

          Sẽ thấy ngay thị trấn tên đó

          Hãy đi theo đường nọ khá xa

              Sẽ thấy Ra-Chá-Ga-Ha

       Vùng đất mỹ diệu, cỏ hoa mỹ miều,

          Nơi có nhiều khu rừng, hồ nước,

          Những vườn tược xinh đẹp nơi đây’.

              Dù được khuyến giáo  như vầy

       Người ấy lại nhắm hướng Tây đi vào !

          Đi sai đường làm sao đến được ?

 

          Rồi trái ngược với kẻ nói trên  

              Một người gặp ông nói lên

       Hỏi đến Vương Xá phải nên thế nào ? 

          Ông chỉ dẫn trước sau cặn kẽ

          Cứ đi vậy thì sẽ thấy qua

              Vương Xá – Ra-Chá-Ga-Ha. 

       Người ấy theo đó trải qua hành trình

          Bởi y tin lời ông đã dặn

          Thực hiện đúng chỉ dẫn đường đi

              Nên đến Vương Xá kinh kỳ.

       Này Bàn-Môn ! Do nhân gì, duyên chi

          Khiến trong khi cùng có mặt tại

          Sa-Vát-Thi, cùng lại hỏi ông,

              Ông đã chỉ dẫn hết lòng

       Con đường đúng chính hướng đông kia mà !

          Nhưng một kẻ thật là ngang bướng  

          Đi sai lạc qua hướng phía Tây

              Một kẻ cũng hỏi đường vầy

       Nghe theo chỉ dẫn, đến ngay nơi cần ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Thế nhân xuôi, ngược

          Con thì làm gì được ở đây ?   

              Con chỉ hướng dẫn đường này

       Còn phần thực hiện kẻ đây phải làm ”.

 

     – “ Cũng vậy, đích Niết-bàn có mặt

          Trong khi Ta có mặt chỉ đường,

              Nhưng các đệ tử Ta thường

       Được Ta khuyến giáo, tinh tường dạy răn

          Thì một phần chứng được cứu cánh

          Đích Niết-bàn bậc Thánh viên thông,

              Nhưng một số khác thì không !

       Ta làm gì được ? Khó mong chuyển dời !

          Vì Ta chỉ là người chỉ dẫn ! ”.

 

          Nghe từ đấng Đại Giác thuyết ra

              Bà-La-Môn Ga-Na-Ka

       Mốc-Gá-La-Ná thưa qua Phật Đà :

 

    – “ Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Đối với     

          Những người không phải bởi lòng tin,

              Chỉ vì sinh kế của mình

       Xuất gia, từ bỏ gia đình đi tu.

          Người xảo trá hoặc hư ngụy khác,

          Người gian dối lường gạt, mạn kiêu,

              Mất thăng bằng, dao động nhiều

       Nói phô tạp nhạp, nói điều nhố nhăng,

          Không hộ trì các căn mọi chỗ,

          Ăn uống không tiết độ mọi thì,

              Không chú tâm cảnh giác chi,

       Sa-môn-hạnh chẳng hành trì, thờ ơ,

 

          Không tôn thờ, kính trọng học-pháp

          Sống thừa thải, chậm chạp lười trây,

              Đi đầu trong thối thất vầy,

       Từ bỏ gánh nặng đường dài viễn ly,

          Tinh cần thì thấp kém, thất niệm

          Không tỉnh giác, không điểm định tâm

              Liệt tuệ, câm ngọng, tán tâm…

       Tôn Giả ! Không thể sống gần hạng đây.

 

          Trái lại vầy, những Thiện-nam-tử

          Vì lòng tin, tham dự Săng-Ga

              Từ bỏ gia đình, xuất gia

       Độc cư tu tập, tránh xa điều tà

          Không xảo trá, gian ngoa, lường gạt,

          Không cao mạn, không mất thăng bằng,

              Không dao động, không nói năng

       Một cách tạp nhạp, các căn hộ trì

          Ăn uống thì tiết độ, tỉnh giác,

          Sa-môn-hạnh an lạc hành trì

              Tôn kính học pháp, thực thi 

       Sống không thừa thải, không khi nào lười,

          Trong mọi thời từ bỏ thối thất,

          Trong viễn ly chân thật đi đầu,

              Tinh tấn, chánh niệm thanh cao,

       An trú định tĩnh, hướng vào nhất tâm,

          Có trí tuệ, không câm ngọng vậy…

          Những vị ấy nên sống gần thường.

              Ví như trong các căn hương

       Hắc-chiên-đàn chính loại hương này là

          Hương tối thượng, quý và được thích.

          Lõi cây hương thì xích-chiên-đàn

              Gọi là tối thượng vô vàn.

       Hoa hương các loại nếu mang so bì

          Vũ-quý-hương này thì tối thượng.

 

          Cũng như vậy, cao thượng tột vời    

              Chính là khuyến giáo những lời

       Của Ngài Tôn Giả trong thời vừa qua.

          Bạch Gô-Ta-Ma Tôn Giả !

          Với pháp âm Ngài đã giảng bày

              Thật hy hữu ! Vi diệu thay ! 

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày

       

              Con xin quy ngưỡng từ nay

       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

 

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận cho con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung

              Tín thành nương đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ./- 

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

 *  *

 

(  Chấm dứt Kinh 107 :  GANAKA MOGGALÀNA

GANAKA MOGGALLÀNA  Sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17271)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 11744)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6292)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3679)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4637)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7688)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4304)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11601)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 7908)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
09/08/2018(Xem: 6235)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]