Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Tiểu Kinh Sư Tử Hống

18/05/202019:52(Xem: 11581)
11. Tiểu Kinh Sư Tử Hống

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



11. Tiểu Kinh SƯ TỬ HỐNG

( Cùlasìhanàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ(1)

An trú tại Xá-Vệ(2) thành này

Sa-Vát-Thí (2) cũng là đây

Kỳ Viên Tinh Xá(3) hôm mai tịnh, hòa

 Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná(3)

Khu vườn do Trưởng giả tên là

A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

Mua lại từ Kỳ Đà thái tử

Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

    _______________________________

 (1) : Hai trong 10 danh hiệu ( Thập Hiệu ) do người đời tôn xưng

         Đức Phật : Thế Tôn ( Bhagavà ) và Thiện Thệ ( Sugato ).

 (2) : Thành Xá Vệ tức Savatthi (Thất-La-Phiệt) một trung tâm văn 

     hóa, thương mại và chính trị quan trọng tại Ấn Độđương thời .   

(3) : Jetavanavihàra : Kỳ Viên  hay  Kỳ Hoàn Tinh Xá ,do Trưởng  

giả Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika – tên thật là Sudatta – Tu-Đạt ) mua lại từ  khu vườn của Thái Tử KỳĐà (Jeta ) gần Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng cho Đức Phật .      Tại đây đức Phật đã nhập hạ nhiều lần và nhiều Kinh quan trọng đãđược Phật thuyết ra .

Vì Trưởng giả Cấp-Cô-Độc đã dùng vàng lót trên mặt đất để mua cho được khu vườn theo lời thách của  Thái Tử  KỳĐà , nên chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự (chùa trải vàng ). Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vìđạo của Trưởng Giả, Thái Tử hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng chúng ,  nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Jetavana Anàthapindikàràma

–  Kỳ Thọ Cấp-Cô-Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc, cây KỳĐà ). 

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –154

 

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo câu hội đủđều

              Phật gọi : “ Này các Tỷ Kheo ! ”

       Chúng Tăng cung kính vâng theo lời Ngài.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ởđây chân thật

          Có Sa Môn thứ nhất, thứ hai

              Sa Môn thứ ba – Bất Lai

       Sa Môn thứ bốn – Khứ lai không còn.

           Các ngoại đạo Sa Môn không có.

           Từđiều đó, Tăng Chúng chánh chân

              Tiếng sư tử hãy rống ngân.

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Khi nhân sự tình

           Những ngoại đạo bất minh du sĩ

           Có thể nghĩ và nói sân si :

–    ‘Chư Tôn-giả tin tưởng gì

       Hay là có sức lực gì thật hay

           Mà tuyên bố : Chỉđây mới có

           Bậc Sa Môn sáng tỏ nghiêm oai

               Sa Môn thứ nhất, thứ hai

       Thứ ba, thứ bốn ; đức tài Thinh Văn ?

          Còn tự mãn cho rằng ngoại giáo

          Không hề có Thánh đạo Sa Môn !’.

              Nên giữ thái độôn tồn

        Trả lời :  – “ Chư vị ! Đừng nôn nóng gì !

          Nói thế, vì chúng tôi chánh kiến

          Bốn pháp được phương tiện dạy ra

               Theo lời của đấng Phật Đà

        Bậc đã thấy, biết ; hằng hà Trí Bi

Đại La-Hán, Toàn Tri, Chánh Đẳng

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –155

 

          Nên chúng tôi đã khẳng định rồi :

              Trong Pháp, Luật của chúng tôi

       Đầy đủ bốn bậc tuyệt vời Sa Môn

          Là thanh tịnh Sa Môn thứ nhất

          Cùng các bậc thứ hai, thứ ba

              Sa Môn thứ tư tịnh hòa.

 (Thinh Văn Tứ Thánh chính làởđây

          Tu-Đà Hoàn – Thất Lai đạo, quả(1)

          Tư-Đà-Hàm –đạo quả Nhất Lai  (2)

              A-Na-Hàm – bậc Bất Lai        (3)

       Cùng A-La-Hán (4) – khứ lai không còn).

          Sao là bốn Pháp tôn quýđó ?

          Này chư Hiền ! Vì có lòng tin

              Vào bậc Đạo Sư của mình

       Hết lòng tin Pháp cao minh thiện lành

          Vì có sự tựu thành viên mãn

          Các Giới Luật trong sáng tuyệt vời

              Với những pháp hữu đồng thời

       Những người Cư-sĩ, những người xuất gia

          Thảy đều là được tôi thương mến.

          Chúng tôi tự chánh kiến trải qua

              Bốn pháp được Phật thuyết ra

       Bậc đã thấy, biết, Phật Đà, Thế Tôn,

          Nên chúng tôi tuyên ngôn như thế ! ”

    _______________________________

  *  : Tức làBốn thánh quả Thinh-Văn-Giác :

(1) :Tu-Đà-Hoàn  ( Sotàpatti ) hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai

quả (chỉ còn sinhlại thế gian 7 lần).

(2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng , sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn .

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –156

 

          Các Tỷ Kheo ! Được kể như vầy

              Có thể có sự tình này :

       Du sĩ ngoại đạo nói ngay một hồi :  

    – “ Chư Hiền-giả ! Chúng tôi cũng có

          Lòng tin đó vào Đạo Sư tôi  

              Tin tưởng Pháp của chúng tôi

       Thành tựu Giới Luật riêng thời chúng tôi

          Những pháp hữu khắp nơi các vị

          Người xuất gia, cư sĩĐạo tôi

              Chúng tôi thương họ vô hồi,

       Như vậy các vị& chúng tôi khác gì ?

          Đặc thù gì ? Có gì sai biệt ?

          Mà các vị nói việc ấy ra ? ”.

 

              Các Tỷ Kheo ! Vẫn ôn hòa

       Trả lời với họ, nêu ra vấn đề :

     – “ Này chư Hiền ! Thuộc về phương diện 

          Cứu cánh làđa diện trên đời

              Hay chỉ là một mà thôi ? ”.

       Nếu họ đứng đắn , trả lời thẳng ngay :

     – “ Chư Hiền này ! Cứu cánh là một

          Không thể thốt đa diện điều này ”.

              Các con lại hỏi như vầy :

 – “ Cứu cánh ấy để cho rày người tham

          Hay cho người không tham, ngay thẳng ? ”.

          Nếu là người đứng đắn, nói ngay :

        – “ Chư Hiền-giả ! Cứu cánh này

       Không dành cho những người đầy tham lam

          Chỉ cho người không tham, vô hại ”. 

 

     – “ Cứu cánh ấy cho người sân & si                    

              Hay cho người không sân & si ?

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –157

 

       Cho người cóÁi & Không vìÁi mong ?

          Người chấp thủ& Người không chấp thủ ?

          Người có trí hay lũ u mê ?

              Cho người thuận ứng & nghịch bề

      Hay không nghịch ứng & không hề thuận thông?

          Người hý luận hay không hý luận ? ”.

 

          Nếu đứng đắn, ưa chuộng điều ngay

              Thì họ trả lời thế này :

 – “ Chư Hiền ! Cứu cánh ởđây chỉ dành

          Cho những người tịnh thanh, sáng tỏ

          Không sân & si ; không cóÁi nào

              Cho người không chấp thủ vào

       Cho người có trí thanh cao tấm lòng

          Không thuận ứng và không nghịch ứng

          Người không thích hý luận, lắm điều.

              Những kẻ trái lại, ngược chiều

       Cứu cánh không phải cho nhiều kẻđây ”.

 

Chư Tỷ Kheo ! Ởđây tuần tự

          Có hai thứ tri-kiến như vầy :

              Hữu-kiến & Phi-hữu-kiến đây

       Sa-môn, Phạm-chí nào hay nhập nhòa

          Chấp trước và thiết thân hữu-kiến

          Cố chấp vào hữu-kiến khư khư

               Vịấy bị chướng ngại từ

       Phi-hữu-kiến đó, thiệt hư còn tùy.

          Còn Sa-môn hay vì Phạm-chí

          Chấp trước chỉ Phi-hữu-kiến này

              Thân thiết, cố chấp kiến đây

       Chướng ngại bởi hữu-kiến ngay tức thì.

Chư Tỷ Kheo ! Các vì Phạm-chí

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –158

 

          Hay Sa-môn các vị, một khi

Đã không như thật tuệ tri

       Tập khởi, đoạn diệt hai chi kiến này

          Vị ngọt đây, sự nguy hiểm đó

          Sự xuất ly của nó khó phân,

              Các vị này thuộc thành phần

       Có tham, cóái, có sân, si đồng,

          Có chấp thủ và không trí chứng

          Có thuận ứng, có nghịch ứng nhiều

Ưa thích hý luận sớm chiều,

       Không thể giải thoát, dứt điều tử sinh

          Sự già, bệnh, phát sinh sầu, khổ

Ưu, bi, não mọi chỗ mọi thì.

 

              Các Tỷ Kheo ! Còn khác đi

       Vị nào như thật tuệ tri cấp kỳ

          Sự tập khởi, tuệ tri đoạn diệt

          Hai loại kiến đã biết trên đây,

              Vị ngọt, sự nguy hiểm đầy

       Xuất ly của chúng biết ngay thế nào

          Những vị nào không tham, không ái

          Không sân hận và lại không si

              Có trí, không chấp thủ gì

       Không thuận & không nghịch ứng chi mọi điều

          Không ưa thích sớm chiều hý luận,

          Những vịấy sớm muộn trải qua

              Sẽ giải thoát khỏi sinh, già

       Dứt sầu, bi, khổ, chết và não, ưu.

          Các Tỷ Khưu ! Đây là Ta nói :

          Những vịấy thoát khỏi khổđau.

 

              Có bốn chấp thủ kể vào

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –159

 

       Thế nào là bốn ?  Trước sau như vầy :

          Dục-thủ và thứ hai Kiến-thủ

          Giới-cấm-thủ& Ngã-luận-thủđây.

              Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe này :

       Sa-môn, Phạm-chí thường ngày tự xưng

          Là liễu tri với từng ấy Thủ

          Nhưng không tự hiển thị chánh chân

              Liễu tri về Thủ các phần

       Như về Dục-thủ họ cần liễu tri

          Không hiển thị liễu tri Kiến-thủ&

          Giới-cấm-thủ& Ngã-luận-thủ đồng

              Vì sao vậy ?  Xét cho thông

       Những Hiền-giảấy đã không thuận tùy

          Không như thật tuệ tri ba sự.

          Do vậy, tự Phạm-chí, Sa-môn

              Tuy tự xưng hiểu rất thông

       Liễu tri các Thủ , nhưng không hiểu gì

          Không hiển thị liễu tri chân chánh

          Tất cả Thủ ; chóng vánh thực thi

              Họ hiển thị sự liễu tri

       Dục-thủ& Kiến-thủ – trừđi hai điều :

          Không liễu tri về Giới-cấm-thủ,

          Ngã-luận-thủ cũng chẳng liễu tri.

              Vì sao vậy ? Đó là vì

       Họ không như thật tuệ tri hai điều.

 

          Cũng như vậy, với nhiều suy nghĩ

          Có những vị Phạm-chí, Sa-môn

              Hiển thị liễu tri, tuyên ngôn

       Về Dục & Kiến-thủ và còn liễu tri

          Giới-cấm-thủ, chỉ vì ba sự

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –160

 

         Không hiển thị một thứ đồng thì

              Ngã-luận-thủ không liễu tri

       Họ không như thật tuệ tri một điều.

          Những Sa-môn và nhiều Phạm-chí

          Tuy tự xưng các vị liễu tri

              Về tất cả Thủ chi chi

       Nhưng không hiển thị liễu tri những gì.

          Không hiển thị liễu tri chân chánh

          Tất cả Thủ, chóng vánh thực thi

              Họ hiển thị sự liễu tri

       Về ba Thủ trước, trừđi một điều :

          Ngã-luận-thủ một chiều hiển thị.

          Các Tỷ Kheo ! Du sĩ ngao du

              Pháp & Luật mà họ khư khư

       Nếu họ tịnh tín Đạo Sư của mình

          Thì thật tình không hoàn toàncả

          Nếu họđã tin Pháp của mình

              Cũng không hoàn toàn sự tin,

       Viên mãn Giới Luật của mình thành công

          Thành tựu ấy là không hoàn hảo

          Sự thương mến bạnđạo các hàng

              Thương mến cũng không hoàn toàn

       Vì sao như vậy ? Xét sang kỹ càng

          Một Pháp & Luật giảng bàn không khéo

          Hiển thị cũng không khéo, vụng về

              Không có cao thượng hướng về

       Không hề dẫn đến mọi bề tịnh an

          Không được bậc hoàn toàn giải thoát

          Chánh Đẳng Giác hiển thị rõ ràng.

 

Chư Tỷ Kheo ! Còn nói sang

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –161

 

       Như Lai giác ngộ minh quang Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Nên tự xưng viên mãn liễu tri

              Tất cả các Thủ đồng thì

       Chân chánh hiển thị liễu tri chúng, vì

          Sự hiển thị liễu tri Dục-thủ

          Kiến-thủ, Giới-cấm-thủ do đâu

              Cùng ngã-luận-thủ hiểu sâu.

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Hiểu mau như vầy :

          Trong Pháp này, Luật này chân thật

          Nếu tịnh tín với bậc Đạo Sư

              Tịnh tín ấy được xem như

       Là hoàn toàn cả, chẳng hư vọng gì,

          Tin Pháp, tin ấy thì hoàn hảo

          Các Giới Luật chu đáo tựu thành

              Được xem hoàn toàn tựu thành,

       Có sự thương mến bạn lành tín gia

          Được xem là mến thương hoàn hảo,

          Vì sao vậy ? Sự giáo truyền này

              Pháp & Luật khéo thuyết giảng đây

       Khéo được hiển thị, khiến đầy tịnh an

          Có hướng thượng, do hàng Chánh Giác

Đã hiển thị, đem lạc an ngay.

Chư Tỷ Kheo ! Hãy nghe này :

       Bốn loại chấp thủ như vầy, kể trên

Đã lấy gì làm duyên ? Tập khởi ?

          Lấy gì làm chủng ? với làm nhân ?

              Bốn loại chấp thủ này cần

Ái làm duyên, với Ái làm chủng, nhân.

          Các Tỷ Kheo ! Về phần của Ái

          Gì làm duyên cho Ái như vầy ?

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –162

 

              Lấy gì làm tập khởi đây ?

       Lấy gì làm chủng & nhân ngay tức thì ?

          Chính Thọ ni làm duyên, tập khởi,

          Lấy Thọ làm chủng với làm nhân.

 

Chư Tỷ Kheo ! Nối tiếp dần

       Thọ này lấy Xúc, thành phần làm duyên

          Làm tập khởi, nhân liền và chủng.

          Xúc lấy đúng Sáu Nhập làm duyên

              Làm tập khởi & chủng & nhân liền.

 

       Lại lấy Danh Sắc làm duyên Nhập này

          Làm tập khởi & chủng đây & nhân đó.

 

          Danh Sắc nọ lấy Thức làm duyên

              Làm tập khởi & chủng & nhân liền.

 

       Lấy Hành căn bản làm duyên Thức này

          Làm tập khởi & chủng đây & nhân đấy.

          Hành này lấy Vô Minh làm duyên

              Làm tập khởi & chủng & nhân liền.

 

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Hiện tiền Tỷ Kheo

           Với Vô-minh dính đeo – trừ diệt

           Minh sanh khởi. Do biết, hiểu thông

               Vô minh được đoạn trừ xong

       Do Minh sanh khởi nên không chấp trì

          Không chấp thủ những gì ? : Dục-thủ

          Bỏ kiến-thủ, giới-cấm-thủ ngay

              Bỏ ngã-luận-thủ bấy nay

       Nhờ không chấp thủ, vị này lạc an

          Tâm hoàn toàn không còn tháo động

          Nên nhanh chóng chứng đắc Niết Bàn

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –163

 

              Vịấy tuệ tri rõ ràng :

       Phạm hạnh thành tựu, sự Sanh tận rồi

          Việc cần, thời đã làm hoàn tất

          Không trở lui bất trắc tử sanh ”.

 

              Thế Tôn thuyết giảng an lành        

       Chư Tăng tín thọ, thực hành Pháp môn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*   *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 11 :  Tiểu Kinh SƯ TỬ HỐNG  – CÙLASÌHANÀDA  Sutta  ) 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17270)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 11744)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6292)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3679)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4637)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7688)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4304)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11601)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 7908)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
09/08/2018(Xem: 6235)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]