Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

32. Đại Kinh Khu Rừng Sừng Bò

19/05/202009:10(Xem: 11979)
32. Đại Kinh Khu Rừng Sừng Bò

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



32. Đại Kinh RỪNG SỪNG BÒ

(Mahàgosinga sutta)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ, Thế Tôn an trú

          Khu vườn cạnh rừng rú phía xa

              Rừng Sừng Bò – Gô-Sinh-Ga  (1)

       Có nhiều cây loại Sa-La (2) được trồng.

          Cùng với một sốđông Tôn-giả

          Bậc Thượng Tọa, đệ tử Phật Đà

              Những vị nổi tiếng, sâu xa

       Như ngài Sa-Rí-Pút-Ta (3) trí hiền,

          Mục-Kiền-Liên – Mốc-Gan-La-Ná(4),

Đại Ca-Diếp Tôn-giả Đầu-đà(5)

 (Tức Ma-Ha Káp-Sa-Pa)

       A-Nú-Rút-Thá – A-Na-Luật-Đà(6)

 (Hay A-Nậu-Lâu-Đà cũng thế),

          Ly-Bà-Đa  tức Rế-Va-Ta (7)

     ________________________________

(1) : Rừng Gosinga .

(2) : Cây  Sala : Loại cây lớn có hoa to bằng nắm tay màu đỏ sẫm

 mùi thơm nồng, những cánh hoa xếp tỏa ra như hoa sen, nhụy hoa

 vươn lên giống nhưđầu rồng nên thường  được gọi là Long thọ .

(3) : Tôn-giả Sariputta – Xá-Lợi-Phất ; bậc Trí Tuệ đệ nhất ( vị đứng đầu trong 10 vịĐại Đệ Tử của Phật ).

(4): Tôn-giả Moggallana – Mục-Kiền-Liên; vịThần Thông đệ nhất.

(5) : Tôn-giả Mahà Kassapa - Đại Ca-Diếp; vịĐầu Đà đệ nhất .

(6) : Tôn-giả Anuruddha – A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-Luật-Đà ; vịThiên Nhãn đệ nhất. Ngài là con của Cam-Lộ-Phạn Vương (Amito- dana , em ruột Vua Tịnh Phạn Suddhodana ).

(7) : Tôn-giả Revata – Ly-Bà-Đa ; vịThiền Định đệ nhất . Ngài là em út của Tôn-giả Xá-Lợi-Phất .     

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –476  

 

              Và Tôn-giả A-Nan-Đa (1)

       Cùng với một số Thượng Tòa nổi danh.

          Vào buổi chiều an lành thoải mái  

          Vừa đứng dậy sau khi tham thiền

              Tôn-giảĐại Mục-Kiền-Liên

       Đến Đại Ca-Diếp, gặp liền nói ra :

    – “ Hiền-giả Káp-Sa-Pa kính mến !

          Ta hãy đến nghe pháp sâu xa

              Từ ngài Sa-Ri-Pút-Ta !”.       

– “ Thưa vâng, Hiền-giả ! Chúng ta đi liền ”.

          Hai Tôn-giả Mục-Liên – Ca-Diếp

          Vị kế tiếp A-Nú-Rút-Tha,

              Rồi cả ba vịđi qua

 (Ngài Xá-Lợi-Phất sâu xa trí tài).

 

          A-Nan-Đa vị này chợt thấy

          Ba vịấy đến chỗ thiền-na

              Của ngài Sa-Ri-Pút-Ta

       Liền đến chỗ Rê-Va-Ta vị này.

          Rồi nói ngay với vì Tôn-giả :

    – “ Ly-Bà-Đa hiền-giả thiết thân !  

              Hãy xem các bậc Thượng nhân

       Cùng đi nghe pháp muôn phần diệu tri

     ________________________________

X(1) : Tôn-giả Ananda  hay A-Nan, là con của Hộc-Phạn-Vương

    ( em Vua Tịnh Phạn ) và là em của Devadatta (Đề-Bà-Đạt-Đa).

    Ngài là vị Thị-giả trung kiên của Đức Phật suốt 30 năm (Trung-

 giác-thời và hậu-giác-thời của Phật),có trí nhớ tuyệt vời nên được

 xưng tụng là vịĐa Văn đệ nhất . Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn

 3 tháng,Ngài Mahà Kassapa triệu tập 500 vị A-La-Hán để KếtTập toàn bộ lời dạy của Đức Phật thành Tam Tạng Thánh Điển; trong đó , ngài A-Nan đọc lại tất cả những bài pháp Đức Phật đã thuyết giảng trong suốt 45 năm hoằng pháp đểĐại Hội kết tập thành Tạng Kinh .   

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –477  

 

          Do Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá

          Sẽ thuyết ra cho cả chúng ta.

              Này Hiền-giả Rê-Va-Ta !

       Chúng ta hãy đến tham gia buổi này ”.  

 

    – “ Vâng, Hiền-giả ! Đi ngay kẻo trễ ”.

 

          Rồi các vị vừa kể, đi qua

              Chỗ ngài Sa-Ri-Pút-Ta

       Mong nghe pháp nhiệm mầu và như chân.

* * *

 (Xá-Lợi-Phất – ‘Tướng Quân Chánh Pháp’    

Đang an lạc, vừa xuất thiền-na)

              Bỗng thấy đi đến từ xa

       Là Rê-Va-Tá cùng là A-Nan

          Khi gặp mặt A-Nan, ngài nói :  

 

    – “ Này Hiền-giả nhớ giỏi A-Nan !

              Hãy đến đây, cùng luận bàn

       Ngài là thị-giả hoàn toàn, tịnh thanh

          Hầu cận Phật chí thành một dạ.

          Này Hiền-giả ! Thật khảái thay !

              Khu rừng Gô-Sinh-Ga này

       Sa-la hoa trổ hương đầy khắp nơi

          Rằm sáng trăng hương trời rộng tỏa

          Theo Hiền-giả, hạng Tỷ Kheo nào

              Có thể làm chói sáng lâu

       Rừng Gô-Sinh-Gá, nhờ vào vịđây ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Như vầy, có vị

          Là Tỷ Kheo nghe kỹ, nhớ nhiều

              Giữ gìn, tích tụ những điều

       Mình đã nghe ấy, không tiêu hoại gì.

          Pháp những kỳ sơ, trung, hậu thiện

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –478  

 

          Được phô diễn cụ túc nghĩa, văn

              Nói lên phạm hạnh chánh chân

       Hoàn toàn thanh tịnh tâm thân sớm chiều.

          Pháp vịấy nghe nhiều, giữ kỹ

          Lập lớn tiếng, được ý tư duy

              Tri kiến quán sát tức thì

       Vịấy thuyết pháp cũng vì chúng đông

          Với văn cú suốt thông, lưu loát

          Mục đích đoạn trừ mọi tùy miên.

              Ngài Xá-Lợi-Phất trí hiền !

       Hạng Tỷ Kheo ấy lời tuyền sáng trưng

          Có thể làm khu rừng sáng chói ! ”.

 

          Khi nghe nói ý kiến A-Nan

              Ngài Xá-Lợi-Phất quay sang

       Vị Rê-Va-Tá vẫn đang ngồi kề :

    – “ Hiền-giả Rê-Va-Ta chân thật !

Vị‘Đa Văn đệ nhất’ A-Nan

              Trả lời một cách rõ ràng

       Theo sự giải thích phong quang của mình,

          Nay tôi hỏi sự tình cũng vậy :

        ‘Thật khảái Gô-Sinh-Gá này !

              Khu rừng phong cảnh đẹp thay !

       Sa-la hoa trổ hương đầy khắp nơi

          Rằm sáng trăng hương trời rộng tỏa

          Theo Hiền-giả, vị Tỷ Kheo nào

              Có thể làm chói sáng lâu

       Rừng Gô-Sinh-Gá, nhờ vào vịđây ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Như vầy, có vị

          Là Tỷ Kheo tịnh chỉ, độc cư

Ưa thích đời sống tịnh cư

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –479  

 

       Vui thú đời sống tịnh cư an lành

          Rèn nội tâm, tịnh thanh thiền định

          Không gián đoạn thiền định phút nào

              Thành tựu quán hạnh thanh cao

       Các chỗ không tịch tầm cầu tới lui.

          Thưa Tôn-giả ! An vui như thế

          Tỷ Kheo này có thể làm cho

              Sáng chói khu rừng rộng to

       Gô-Sinh-Gá, rừng Sừng Bò nơi đây ! ”.

 

          Nghe Tôn-giả Ly-Bà-Đa đó

        (Đệ nhất Thiền-định) tỏ bày ra

              Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta

       Hỏi ngài A-Nậu-Lâu-Đàôn nhu :

 

    – “ Này Hiền-giả A-Nu-Rút-Thá !

          Rê-Va-Tá hiền-giả trình bày

              Theo quan niệm riêng như vầy

       Xin hỏi Tôn-giả việc này ra sao :

          Hạng Tỷ Kheo thế nào được nói

          Làm sáng chói rực rỡ khu rừng ? ”.

 

        – “ Thưa ngài ! Tỷ Kheo đã từng

       Dùng thiên nhãn tịnh thanh trừng sạch trong

          Được siêu nhiên, viên thông thanh tịnh

          Quán sát chính thế giới muôn ngàn

              Ví người có mắt rõ ràng 

       Lên đỉnh lầu nọ dễ dàng ngắm trông

          Quán sát ngàn đường vòng lan tỏa.

          Cũng vậy, thưa Hiền-giả trí hiền !

              Vị Tỷ Kheo đó vô phiền

       Thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên hiện tiền,

          Quán sát liền muôn ngàn thế giới

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –480  

 

          Là hạng làm sáng chói rừng này ”.

(‘Đệ nhất Thiên Nhãn’ vị này

       A-Nu-Rút-Thá  trình bày vừa qua)

          Ngài Sa-Ri-Pút-Ta nghe vậy

          Liền hỏi Đại-Ca-Diếp Thượng Tòa

 Là vị‘Đệ nhất Đầu Đà’ :

 

 – “ Ngài Đại Ca-Diếp ! Vừa qua trình bày

          Tôn-giảđây – A-Nu-Rút Thá

          Quan niệm riêng đã trả lời tôi.

              Xin hỏi Tôn-giảý rồi :

       Hạng Tỷ Kheo khiến chói ngời là chi ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả Sa-Ri-Pút-Tá !

          Những hành giả sống ở núi rừng

              Tán thán đời sống núi rừng

       Tự mình khất thực, đến từng tín-gia

          Tán thán qua đời sống khất thực

          Phấn-tảo-y của bậc khổ hành

 (Vải bó thây, lượm để dành

       Giặt kỹ cho sạch, may thành y đây)

          Dùđêm ngày, ba y luôn giữ,

          Tán thán hạnh chỉ giữ tam y,

              Tự sống thiểu dục hành trì

       Tán thán thiểu dục hạnh ni am tường,

          Sống biết đủ, tán dương tri túc,

          Sống không nhiễm thế tục, an như,

              Tự mình vui sống độc cư

       Tán thán hạnh sống độc cư thanh bần,  

          Sống tinh cần, tán dương tinh tấn,

          Tự thành tựu giới hạnh tịnh thanh

              Tán thán giới hạnh tựu thành,

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –481  

 

       Thành tựu thiền định, phát sanh an lành

          Tán thán sự tựu thành thiền định,

          Được trí tuệ chân chính tựu thành

              Tán thán trí tuệ tựu thành,

       Thành tựu giải thoát tịnh thanh ngọn ngành,

          Tự tựu thành giải thoát tri kiến

          Khen giải thoát tri kiến tựu thành.

              Hạng Tỷ Kheo này thực hành

       Làm cho sáng chói, vinh danh rừng này ”.

 

          Nghe Vậy, ngài Sa-Ri-Pút-Tá

          Bảo Tôn-giả Mốc-Gan-La-Na

 (Đại Mục-Kiền-Liên cũng là

‘Thần thông đệ nhất’ Thượng Tòa tả ban )(1):

    – “ Này Hiền-giả Mốc-Gan-La-Ná !

          Theo Hiền-giả, hạng Tỷ Kheo nào

              Làm cho sáng chói vút cao !

       Rừng Gô-Sinh-Gá thêm vào uy nghi ? ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả Sa-Ri-Pút-Tá !

          Về A-Phí-Thăm-Má(2) uyên thâm

 (Vi-Diệu-Pháp – A-Tỳ-Đàm)

       Hai Tỷ Kheo nọ luận đàm cùng nhau

          Họ hỏi nhau ; và người được hỏi

          Khéo trả lời về mọi pháp-chi

              Chứ không dừng lại, do vì

       Không trả lời được những gì hỏi đi.

     ________________________________

   (1) : Tôn-giả Sariputta (Xá-Lợi-Phất) và Tôn-giả Moggallana (Mục-Kiền-Liên)được Đức Phật công nhận là hai vịĐại Đệ Tử

 tay mặt (Sariputta) và tay trái (Moggallana) của Ngài .

  (2) : Abhidhamma – Vi-Diệu Pháp ( A-Tỳ-Đàm ) là phần quan

trọng trong Tạng Luận .

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –482  

 

          Cuộc đàm luận A-Phi-Thăm-Má

          Được tiếp tục với cả hai bên

              Nên hạng Tỷ Kheo nói trên

       Làm cho sáng chói lâu bền rừng thiêng ”.

 

          Rồi Đại Mục-Kiền-Liên Tôn-giả

          Hỏi Tôn-giả Sa-Rí-Pút-Ta :

       – “ Xin thưa Tôn-giả ! Vừa qua

       Chúng tôi đã trả lời làý riêng

          Quan điểm riêng chúng tôi giải thích

          Nay để rõ mục đích vấn đề

              Xin hỏi lại Tôn-giả về

       Câu hỏi Tôn-giả một bề hỏi đây :

         ‘Khảái thay ! Rừng Gô-Sinh-Gá !

          Sa-la trổ hoa tỏa hương bay

              Cùng khắp trong đêm rằm này

       Hương trời tỏa rộng khắp đầy, lan đi.

          Thưa Hiền-giả Sa-Ri-Pút-Tá !

          Theo Hiền-giả, vị Tỷ Kheo nào

              Làm cho sáng chói vút cao

       Tại Gô-Sinh-Gá dạt dào lâm viên ? ”.      

 

    – “ Hiền-giả Mục-Kiền-Liên ! Tôi nghĩ :

          Chính là vịđiều phục được tâm.

              Tỷ Kheo điều phục được tâm

       Muốn an trú quả cao thâm khi nào :

          Muốn an trú quả vào buổi sáng

          Thì an trú buổi sáng thanh triêu

              Muốn an trú buổi trưa &chiều 

       Thì an trú buổi trưa & chiều thanh lương

          Ví như vị Quốc Vương một nước

          Hay Đại-thần quyền tước thật cao

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –483  

 

              Có tủ đựng nhiều áo bào

       Nhiều loại gấm vóc, sắc màu khác nhau

          Cặp áo nào nhà vua muốn mặc

          Vào buổi sáng hay giấc buổi trưa

              Buổi chiều – khi nắng, lúc mưa

       Thì vua cứ mặc cho vừa ý riêng.

          Hiền-giả Mục-Kiền-Liên ! Cũng vậy

          Tỷ Kheo ấy điều phục được tâm

              Không phải không điều phục tâm,

       Muốn an trú quả vào tầm sáng, trưa

          Hay buổi chiều cho vừa ý muốn

          Tùy trạng huống, thực hiện tùy duyên.

              Hiền-giảĐại Mục-Kiền-Liên !

       Hạng Tỷ Kheo ấy an nhiên như vầy

          Có thể làm rừng này sáng chói ! ”.

 

          Rồi Tôn-giả lại nói nghiêm trang : 

         – “ Chư Hiền ! Chúng ta hãy sang

       Chỗ Thế Tôn ở, rồi mang ý này

          Thỉnh Thế Tôn để Ngài chỉ giáo.

          Vì tất cả luận đạo chúng ta

              Theo giải thích của chúng ta

       Ta hãy căn cứ xuyên qua lời Ngài

          Để từ nay thọ trì như vậy ”.

 

Chư Tôn-giả nơi ấy đồng lòng

              Cùng nhau đi đến tịnh phòng

       Của Đấng Thiện Thệ, để mong trình bày

          Câu chuyện ấy, thỉnh Ngài chỉ giáo.

 

          Gặp Phật Bảo, đảnh lễ chí thành

              Ngồi xuống một bên an lành,

       Ngài Xá-Lợi-Phất ứng thanh nói liền :

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –484  

 

     – “ Bạch Thế Tôn ! Nhân duyên thù thắng !

          Các Tôn-giả đến tận chỗ con

              Để cùng bàn luận pháp môn,

       Con có câu hỏi các Tôn-giả liền.

          Người đầu tiên A-Nan Hiền-giả,

          Tiếp theo Rê-Va-Tá Thiền-gia,

              Hiền-giả A-Nú-Rút-Tha,

       Rồi Ma-Ha Káp-Sa-Pa  đại hiền,

          Ma-Ha Mục-Kiền-Liên sau rốt.

 

          Chỉ với một câu hỏi đặt ra :

            “ Khảái thay ! Gô-Sinh-Ga !

Đêm rằm trăng tỏ thật là sáng trưng !

          Hoa Sa-la trong rừng trổ khắp

          Tỏa hương thơm tràn ngập nơi nơi

              Hạng Tỷ Kheo nào là người

       Làm cho sáng chói rạng ngời rừng đây ? ”.

       *  A-Nan-Đa nói ngay ý nghĩ :

         ‘Tỷ Kheo nào nghe kỹ, nhớ nhiều

              Giữ gìn, tích tụ những điều

       Mình đã nghe ấy, không tiêu hoại gì.

          Pháp những kỳ sơ, trung, hậu thiện

          Được phô diễn cụ túc nghĩa, văn

              Nói lên phạm hạnh chánh chân

       Hoàn toàn thanh tịnh tâm thân sớm chiều.

          Pháp vịấy nghe nhiều, giữ kỹ

          Lập lớn tiếng, được ý tư duy

              Tri kiến quán sát tức thì

       Vịấy thuyết pháp cũng vì chúng đông

          Với văn cú suốt thông, lưu loát

          Mục đích đoạn trừ mọi tùy miên.

 

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –485  

 

              Là vị Tỷ Kheo đại hiền

       Lời vịấy khiến khắp miền sáng trưng

          Có thể làm khu rừng sáng chói ! ”.

 

      *  Đáp câu hỏi, thì Rê-Va-Ta 

(Là vị‘Đệ nhất Thiền-na’)

Đã khéo diễn giải dựa qua ý mình,

          Vào kinh nghiệm của mình, nêu ý :

         ‘Vị Tỷ Kheo tịnh chỉ độc cư

              Luôn sống tịnh chỉ tịnh cư

       Vui thú đời sống tịnh cư an lành

          Rèn nội tâm, tịnh thanh thiền định

          Không gián đoạn thiền định phút nào

              Thành tựu quán hạnh thanh cao

       Các chỗ không tịch tầm cầu tới lui.

          Rồi nói rằng : An vui như thế

          Tỷ Kheo này có thể làm cho

              Sáng chói khu rừng rộng to

       Gô-Sinh-Gá, rừng Sừng Bò nơi đây ! ”.

 

      *  Khi hỏi ngài A-Nu-Rút-Thá,

          Thì Hiền-giảđãđáp, tựu trung :

             ‘Vị Tỷ Kheo nào đã từng

       Dùng thiên nhãn tịnh thanh trừng sạch trong

          Được siêu nhiên, viên thông thanh tịnh

          Quán sát chính thế giới muôn ngàn

              Ví người có mắt rõ ràng 

       Lên đỉnh lầu nọ dễ dàng ngắm trông

          Quán sát ngàn đường vòng lan tỏa.

          Cũng vậy, với thành quả cần chuyên

              Vị Tỷ Kheo đó vô phiền

       Thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên hiện tiền,

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –486  

 

          Quán sát liền muôn ngàn thế giới

          Là hạng làm sáng chói rừng này ”.

 

          *  Đến lượt Đại Ca-Diếp ngài,

       Trả lời theo hạnh mà ngài hành theo :

         ‘Vị Tỷ Kheo nào ưa tịch mịch

          Thường vui thích sống ở núi rừng

              Tán thán đời sống núi rừng

       Tự mình khất thực, đến từng tín-gia

          Tán thán qua đời sống khất thực

          Phấn-tảo-y của bậc khổ hành

 (Vải bó thây, lượm để dành

       Giặt kỹ cho sạch, may thành y đây)

          Dùđêm ngày, ba y luôn giữ,

          Tán thán hạnh chỉ giữ tam y,

              Tự sống thiểu dục hành trì

       Tán thán thiểu dục hạnh ni am tường,

          Sống biết đủ, tán dương tri túc,

          Sống không nhiễm thế tục, an như,

              Tự mình vui sống độc cư

       Tán thán hạnh sống độc cư thanh bần,  

          Sống tinh cần, tán dương tinh tấn,

          Tự thành tựu giới hạnh tịnh thanh

              Tán thán giới hạnh tựu thành,

       Thành tựu thiền định, phát sanh an lành

          Tán thán sự tựu thành thiền định,

          Được trí tuệ chân chính tựu thành

              Tán thán trí tuệ tựu thành,

       Thành tựu giải thoát tịnh thanh ngọn ngành,

          Tự tựu thành giải thoát tri kiến

          Khen giải thoát tri kiến tựu thành.

 

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –487  

 

              Hạng Tỷ Kheo này thực hành

       Làm cho sáng chói, vinh danh rừng này ”.

      *  Trả lời ngay, Mục-Liên Tôn-giả

          Luận A-Phí-Thăm-Má uyên thâm 

 (Vi-Diệu-Pháp – A-Tỳ-Đàm) :

       Hai Tỷ Kheo nọ luận đàm cùng nhau

          Họ hỏi nhau ; và người được hỏi

          Khéo trả lời về mọi pháp-chi

              Chứ không dừng lại, do vì

       Không trả lời được những gì hỏi đi.

          Cuộc đàm luận A-Phi-Thăm-Má

          Được tiếp tục với cả hai bên

              Nên hạng Tỷ Kheo nói trên

       Làm cho sáng chói lâu bền rừng thiêng’.

*  *  *

          Tôn-giả Mục-Kiền-Liên lúc đó

          Bạch với Phật cho rõ thêm ra :

         – “ Bạch Đấng Vô Thượng Phật Đà !

       Chúng con giải thích chỉ làý riêng

          Con hỏi lại trí hiền Tôn-giả

          Xá-Lợi-Phất – xin trả lời qua

              Câu hỏi mà ngài đề ra :

       Tỷ Kheo nào xứng đáng là biểu trưng

          Sáng chói rừng này, Gô-Sinh-Gá ?

 

          Theo Tôn-giả, nội lực cao thâm

              Tỷ Kheo điều phục được tâm

       Muốn an trú quả cao thâm khi nào :

          Muốn an trú quả vào buổi sáng

          Thì an trú buổi sáng thanh triêu

              Muốn an trú buổi trưa &chiều 

       Thì an trú buổi trưa & chiều thanh lương

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –488  

 

          Ví như vị Quốc Vương một nước

          Hay Đại-thần quyền tước thật cao

              Có tủ đựng nhiều áo bào

       Nhiều loại gấm vóc, sắc màu khác nhau

          Cặp áo nào nhà vua muốn mặc

          Vào buổi sáng hay giấc buổi trưa

              Buổi chiều – khi nắng, lúc mưa

       Thì vua cứ mặc cho vừa ý riêng.

          Vị hành giả cần chuyên cũng vậy

          Tỷ Kheo ấy điều phục được tâm

              Không phải không điều phục tâm,

       Muốn an trú quả vào tầm sáng, trưa

          Hay buổi chiều cho vừa ý muốn

          Tùy trạng huống, thực hiện tùy duyên.

              Giữ tâm thanh tịnh vô phiền

       Hạng Tỷ Kheo ấy an nhiên như vầy

          Có thể làm rừng này sáng chói ”

 

Đó là mọi ý kiến nêu ra.

              Kính bạch Thế Tôn Phật Đà

       Thỉnh Ngài chỉ dạy rõ, qua điều này ”.

 

    – “ Thật lành thay ! Mốc-Gan-Lá-Ná !

          Nếu chân chánh để trả lời ngay

              Thì tất cả các ông đây 

       Đều trả lời đúng như vầy mà thôi !

          Tùy kinh nghiệm họ thời chứng đắc

          Nét đặc trưng họđạt ra sao ”.

 

              Nghe lời Phật dạy trước sau

       Ngài Xá-Lợi-Phất cúi đầu thưa qua :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Vị nào xứng đáng

Trung Bộ (Tập 1)Đại K. 32 :  RỪNG SỪNG BÒ*MLH –489  

 

          Khéo trả lời viên mãn câu này ? ”.

 

          – “ Sa-Ri-Pút-Tá ! Lành thay !

       Lần lượt qua các ông đây trả lời

          Đều là khéo trả lời câu đó.

          Nhưng vẫn có hạng Tỷ Kheo này

               Làm cho khu rừng sáng đầy

       Làm cho rực rỡđóđây rạng ngời :

 

       ‘Như thường lệ, sau thời khất thực

          Vị Tỷ Kheo thọ thực xong rồi

              Sau khi rửa bát, úp phơi

       Tréo chân, lưng thẳng, giữ hơi thở đều

          Ngồi kiết già, nương theo chánh niệm

          Với tâm niệm : Ta quyết đêm ngày

              Không bỏ ngồi kiết già này

       Đến khi đạo-quảđạt, đầy thắng duyên

          Khéo giải thoát não phiền lậu-hoặc

          Không chấp thủ, (chứng đắc sâu xa).

                Này ông Sa-Ri-Pút-Ta !

       Hạng Tỷ Kheo ấy mới là biểu trưng

          Làm sáng chói khu rừng này vậy ! ”.

 

          Nghe lời dạy của Phật rõ rành 

              Các vị Tôn-Giả tịnh thanh

       Hoan hỷ, tín thọ lời lành Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*    *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 32  :  Đại Kinh RỪNG SỪNG BÒ – MAHÀGOSINGA  Sutta  )

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 17271)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 11744)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6292)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3679)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4637)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7688)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4304)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11601)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 7908)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
09/08/2018(Xem: 6235)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]