Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghi: cánh cửa dẫn đến trí tuệ

08/02/201410:27(Xem: 5638)
Nghi: cánh cửa dẫn đến trí tuệ
Phat_Thich_Ca_14

NGHI
:

CÁNH CỬA DẪN ÐẾN TRÍ TUỆ 

Sri Krisna Prem

Diệu Liên Lý Thu linh chuyển ngữ

Thường người ta có thái độ rất sai lầm về tâm nghi. Thay vì coi Nghi như con đường dẫn đến trí tuệ, họ coi đó là sai lầm, là điều không bao giờ nên xảy ra. Tâm nghi là cánh cửa trí tuệ, là lý do tại sao khoa học dựa trên nghi vấn và thí nghiệm đã rất tiến bộ, trong khi tôn giáo, dựa vào lòng tin mù quáng vào các kinh điển đã được viết ra hằng trăm hay ngàn năm trước, đã dần dần đánh mất lòng tin của con người. Tất cả những trí tuệ ta có được là kết quả của lòng nghi ngờ của ai đó đối với một vấn đề gì đó, trong khi đa số lại không hề nghi ngờ gì. Ðiều đó đúng cho cả trong lãnh vực tôn giáo tín ngưỡng cũng như khoa học. Hiện nay tôn giáo là gì? Phần lớn tôn giáo bao gồm việc chấp nhận một cách mù quáng vào những tín ngưỡng đã được dạy bởi các bậc tiền bối, trưởng lão. Người ta thường nói: "Tôn giáo tôi nói điều này, điều nọ; giáo hội dạy thế này, thế kia; kinh điển phán thế kia, thế khác". Không kể tôn giáo nói gì, giáo hội truyền chi, kinh điển dạy chi! Ðiều quan trọng duy nhất là sự tht; mà sự thật chỉ có thể đạt được khi người ta bỏ ngoài tai những điều giáo hội hay kinh điển nói, và chỉ tìm kiếm sự thật không mỏi mệt, không sợ hãi, bằng tất cả tâm hồn, cho đến khi ta có thể giác ngộ được sự thật.

Không kể trên con đường tìm kiếm ta đã phải đánh mất bao niềm tin, tan vỡ bao ảo vọng. Sự thật luôn vượt lên mọi vật, và những ai ngại bước trên con đường tụ do tìm kiếm sẽ chẳng bao giờ đạt đến Sự Thật. Như người lương thiện không sợ ai chất vấn hành tung của mình, người đi tìm sự thật, sẽ không ngại chất vấn những điều mình tin tưởng, vì người ấy biết rằng sự thật không bao giờ bị lay chuyển, trong khi những gì bị lay chuyển trước các nghi vấn đều không phải là sự thật, không có giá trị thật sự. Tuy nhiên chớ lầm tâm nghi chân thật với thói quen vô ý thức thích tranh cãi chỉ để cho có chuyện tranh cãi, hay chỉ để phô trương sự hiểu biết của mình. Ngược lại cũng đừng nên để sự nghi ngờ đưa ta đến chỗ từ chối có một kết luận nào đó về các vấn đề căn bản không thể bàn cãi được. Thí dụ, việc con người không thể hiểu về nguồn gốc vũ trụ, không nên dẫn đến chỗ từ chối chấp nhận những gì khác có thể được chứng minh là sự thật, giống như nếu khả năng của một nhà khoa học không thể hiểu về tính cách căn bản của dòng điện, thì sự kiện đó không thể đưa đến việc ông từ chối chấp nhận rằng cái máy phát điện hoạt động.

Tâm nghi chân thật, trái lại, là những dấu hiệu khởi đầu của sự tiến bộ. Nếu một người học trò có lòng nghi vấn, thì người thầy giáo không nên coi đó là dấu hiệu của sự cứng đầu, mà nên khuyến khích em, vì đó là những dấu hiệu chứng tỏ em có sự suy nghỉ độc lập, và việc biết tự suy nghỉ là những bước đầu trên con đường tìm kiếm sự thật. Ðã có những bước khởi đầu, ta không nên dừng lại ở đó. Người ta không nên cứ mãi sống trong sự nghi ngờ, vì điều đó sẽ làm đầu óc ta yếu đuối, sẽ hủy diệt mọi hành động và sự tiến bộ. Một khi lòng nghi ngờ dấy lên, ta phải cố gắng tìm lời giải đáp cho đúng. Nhưng thường là người ta dập tắt nó bằng sự im lặng, xua đuổi nó ra khỏi tâm trí, hay ảo tưỏng rằng nó không hiện hữu. Tuy nhiên, hành động như thế là vô ích. Lòng nghi ngờ được chôn kín trong lòng ta, và ở trong tận chốn sâu thẳm đó, nó vẫn âm thầm hiện hữu, đầu độc tâm hồn của kẻ có lòng nghi hoặc, giống như một mụt nhọt ẩn náu trong thân thể. 

Rồi để làm bặt đi tiếng nói nghi ngờ trong trái tim mình, kẻ đầy lòng nghi hoặc đó lại lớn tiếng tuyên bố này nọ, càng ngày càng hăng say, và chính vì tự trong lòng họ chẳng có niềm tin vào các điều đó, họ lại kêu gọi người khác tin chúng, để có cảm giác rằng có rất nhiều người đứng về phiá mình. Do đó việc đè nén lòng nghi vấn là nguồn gốc của các mục đích tuyên truyền tôn giáo, và sự thật thường là chính những kẻ cố lôi kéo người khác nghe theo những suy nghỉ của mình, hay tôn giáo của mình, lại là người đầy lòng nghi hoặc ở bên trong. Ðó là con đường của những kẻ cuồng tín và đạo đức giả, vì thế khi có lòng nghi vấn về điều gì, ta phải cố gằng tìm câu trả lời.

Bước thứ nhất là phải chắc chắn rằng mình đã hiểu đúng vấn đề, và để hiểu rõ vấn đề, ta cần phải lắng nghe những người có trình độ hay tham khảo sách báo nói về các đề tài ta thắc mắc, cũng rất cần thiết. Nhưng đó chỉ là bước khởi đầu, và nếu ta vẫn chưa tìm được câu trả lời, thì ta phải chuẩn bị để tự tìm lời giải đáp cho chính mình. Ðể làm được điều đó, ta cần phải có hai điều: tâm hoàn toàn chân thật và lòng kiên trì cố gắng không mệt mỏi. Chúng ta không nên để các thành kiến hay tham vọng làm ảnh hưởng đến cuộc tìm kiếm của mình. Chúng ta phải thẳng thắn đối mặt với mọi yếu tố, dữ liệu, không che giấu chúng với ý nghỉ rằng nếu ta ngoảnh mặt đi thì chúng sẽ biến mất.

Kế đến là sự nỗ lực. Sau khi đã hiểu rõ vấn đề là gì, ta phải dồn hết nổ lực vào việc tìm kiếm lời giải đáp, giống như người đang đói sẽ dồn hết nỗ lực vào việc tìm kiếm thức ăn. Suốt ngày ta cần suy gẫm về vấn đề phải tìm lời giải đáp. Không chỉ trong lúc thiền quán, mà bất cứ lúc nào ta cũng phải quán tưởng, sau khi đã làm được như thế, ta cần phải định tâm để lời giải đáp có thể đến với ta. Khi đầu óc ta đã suy nghĩ rốt ráo, ta có thể chắc chắn rằng câu trả lời sẽ đến với ta; nếu không thì có lẽ chúng ta đã không suy gẫm đủ hay vấn đề đặt ra để tìm kiếm không rõ ràng. Không ích lợi gì khi ta cố gắng giải đáp một bài toán trong đó ta chưa hiểu hết mọi điều kiện, từ ngữ. Thí dụ, hỏi tại sao Thượng đế tạo dựng nên vũ trụ không lợi ích gì khi bạn còn chưa hiểu từ ngữ Thượng đế đối với bạn có ý nghĩa gì. Chỉ khi nào các khái niệm đã rõ ràng thì câu trả lời mới có thể đến với chúng ta.

Tuy nhiên, nếu bạn đã chắc chắn rằng mình biết điều mình muốn kiếm tìm, mà vẫn không tìm ra được lời giải đáp, thì bạn còn phải tiếp tục suy nghĩ, suy nghĩ mãi đến khi sự suy gẫm chín mùi. Rồi, một ngày, khi bạn định tâm, lời giải đáp sẽ hiện ra như tia chớp trong đầu hay như một giấc mơ trong lúc ngủ. Nhưng cũng đừng vì những gì bạn đã thấy trong giấc mơ hay trong lúc thiền định, mà nghĩ rằng đó chính là sự thật, là điều Thượng đế đã tiết lộ cho bạn. Vì những giấc mơ và các ảnh hiện thường hoàn toàn sai lạc. Bạn phải suy gẫm về câu giải đáp cẩn thận, xem nó có làm thỏa mãn tâm trí bạn không. Nếu là không, bạn bắt đầu trở lại. Nếu là có, thì đúng là bạn đã tìm được lời giải đáp cho chính mình, nhưng không nên coi đó là sự thật cuối cùng. Rất có thể vì bạn chưa sẳn sàng để hiều sự thật vẹn toàn, nên bạn chỉ có thể có câu trã lời gần nhất với điều bạn hiểu. 

Vì thế với những hiểu biết vừa khám phá ra được, bạn phải luôn chuẩn bị để sửa đổi những gì trước đó bạn ngỡ là sự thật, giống như một nhà khoa học luôn sẳn sàng buông bỏ những lý thuyết trước đó của mình khi khám phá ra những điều mới lạ khác. Do đó ta có thể thấy là con đường đi đến sự thật rất khó nhọc. Sai lầm này tiếp nối sai lầm khác có thể xảy ra, nhưng nếu bạn kiên trì không mệt mỏi, và không bao giờ buông bỏ hy vọng thì trước sau gì bạn cũng đạt được cái trí tuệ mà nếu đã biết, mọi thứ khác đều biết. Ðó là con đường chắc chắn và an toàn duy nhất. Những con đường khác sẽ dẫn bạn vào những chiếc bẫy của lý thuyết hay lạc lỏng trong các khu rừng ảo tưởng. Ý kiến bạn có thể nghe đó đây, nhưng nếu bạn cần sự thật, thì bạn phải dấn bước trên con đường đó thôi, mặc bao khó nhọc. Với hành trang là lòng chân thành cộng với nỗ lực, chắc chắn bạn sẽ thành công.

Sự thật tiềm ẩn trong bạn. Chính bản thân bạn phải tìm kiếm và thể nghiệm. Rồi bạn sẽ khám phá ra sự thật trong chính bản thân mình.

Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển Ngũ theo Doubt: Doorway to Knowledge, Yoga International 2-3/98)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/04/2016(Xem: 35406)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
29/02/2016(Xem: 10882)
Khi trình bày tổng quát về Phật pháp theo cách tu tập của người Tây Tạng, tôi thường chỉ rõ rằng đạo Phật áp dụng ở Tây Tạng là một hình thức kết hợp các giáo lý thuộc Tiểu thừa, Bồ Tát thừa và Mật thừa, bao gồm cả những pháp môn như là Đại Thủ Ấn. Vì có khá nhiều người [hiện diện ở đây] đã nhận lễ quán đảnh và thọ học giáo pháp v.v... nên việc giảng giải về một cấu trúc hoàn chỉnh [của Phật giáo Tây Tạng] có thể sẽ hữu ích.
28/02/2016(Xem: 8112)
Một thuyết giảng ở Luân Đôn, Anh quốc, 1988. Được chuyển dịch sang Anh ngữ bởi Geshe Thupten Jinpa và hiệu đính bởi Jeremy Russell. Được xuất bản lần đầu tiên trong Cho-Yang (No.5), là một tạp chí được phát hành bởi Bộ Tôn Giáo và Văn Hóa thuộc chính quyền Trung Ương Tây Tạng ở Dharamsala. Copyright His Holliness the Dalai Lama 14 (Bản quyền thuộc về Thánh đức Dalai Lama thứ 14) Quyền cho phép phổ biến Việt ngữ miễn phí với sự chuẩn thuận của ngài Rajiv Mehrotra, đại diện Foundation For Universal Responsibility of HH The Dalai Lama (www.furhhdl.org)
11/02/2016(Xem: 9718)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
11/02/2016(Xem: 4920)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát. Bài viết này sẽ sắp xếp các lý luận sao cho thực dụng, có lợi cho tất cả những người quan tâm và muốn bước vào Thiền Tông. Tính thực dụng trong cách an tâm sẽ trình bày cụ thể, trong mức có thể được. Bản thân người viết tự xét sở học bất toàn, nên sẽ tránh ý riêng tối đa, để chủ yếu dựa vào các kinh Pali phổ biến, có sẵn với các bản Anh văn trên mạng.
24/12/2015(Xem: 4927)
Mỗi người khi sinh ra cũng chỉ với hai bàn tay trắng, rồi tùy theo phước báo và nghiệp lực gieo tạo, mà được trưởng thành trong ấm êm, đầy đủ, vinh danh, hay kiêu mạn, mặc sức thụ hưởng, hoang phí, làm việc thất đức để phải chịu cảnh bần cùng, đọa đày, khổ cực. “Tất cà chúng sanh đều có Phật tánh” kia mà ? Ai ràng buộc chúng ta mà phải cần giải thoát ? tất cả cũng đều do ta gieo tạo, rồi tự thọ nhận lấy quả báo mà thôi! Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình
23/12/2015(Xem: 9974)
Phước báu hay phước đức là quan niệm đặc thù của Đông Phương. Đối với Tây Phương thì chỉ có gia tài, sự nghiệp, di sản để lại cho con cháu chứ không có chuyện phước báu hay phước đức. Quan niệm “phước báu hay phước đức” đã trở thành gần như đời sống tâm linh, gắn chặt với lối suy nghĩ và cuộc sống của con người Việt Nam và Trung Hoa. Người Việt Nam ta ai cũng mong cầu phước đức, lo vun trồng phước đức và rất sợ vô phúc.
19/12/2015(Xem: 5530)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng. Bồ tát thấy tính bản nhiên như pha lê này hiện hữu trong tất cả chúng ta, và bằng việc nhận ra sự tuyệt đẹp của năng lực con người chúng ta, đã luôn luôn có sự tôn trọng.
29/11/2015(Xem: 5158)
Các thanh niên dòng Da Xá trông thấy tướng hảo giải thoát của các vị Thánh này, nên đã phát tâm xuất gia. Cha mẹ và vợ con của các thanh niên Da Xá tìm đến Lộc Uyển thấy hào quang của Đức Phật và đại chúng trang nghiêm cũng phát tâm quy y Tam bảo. Từ đó, Phật giáo có mặt ở Ấn Độ và trải qua suốt thời gian dài hơn 2500 năm, Phật giáo đã được truyền bá từ nước này sang nước khác, có lúc thạnh, lúc suy. Tìm hiểu nguyên nhân nào làm Phật pháp hưng thạnh, hay suy đồi, để chúng ta giữ gìn và phát triển được đạo pháp.
28/11/2015(Xem: 5842)
“Nếu có Tỳ-kheo nào không tàm không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Nếu không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy thì làm tổn hại chánh niệm chánh trí. Nếu không có chánh niệm chánh trí thì làm tổn hại gìn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn. “Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn thì có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh thì thường có tín. Nếu có tín thì thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy thì thường có chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí thì thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát thì liền được Niết-bàn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]