Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

28/01/201109:41(Xem: 9512)
19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Bồ-tátsợnhân chúng sanh sợ quả

Là conngười ai cũng sợ khổ cầu vui, song người mê chỉ biếtsợ quả khổ cầu quả vui. Ngược lại người tỉnh chỉsợ nhân khổ, tạo nhân vui. Hai bên có cái nhìn khác nhau,bên nào sẽ đạt được như sở nguyện? Dù ngây thơ thếmấy, người ta vẫn biết, không tạo nhân lành mà cầu quảtốt là chuyện không đâu; sợ quả khổ mà cứ tạo nhânác là việc khó tránh. Nhân ác không gây, dù chẳng sợ quảkhổ, nó vẫn không đến; nhân lành cứ tạo, dù chẳng cầuquả vui, nó vẫn bò sang. Cho nên người trí nhìn từ cái nhânmà chọn lựa, chọn nhân lành bỏ nhân ác. Cả đời mãi gâytạo nhân lành, loại trừ nhân ác, người này bảo đảm gặthái những kết quả đẹp đẽ an vui. Ai say sưa tạo nhân ác,chẳng bao giờ nghĩ tới nhân lành, chắc chắn sẽ thu lượmđược muôn vàn đau khổ, dù họ sợ sệt khẩn cầu quảấy đừng đến. Cho nên câu châm ngôn nhà Phật, ít Phậttử nào không thuộc, là "Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợquả".

NGHĨABỒ-TÁTVÀ CHÚNG SANH

Bồ-tát(Bodhisavattu) là người giác ngộ, thấy tận cái manh nha cáiđầu mối của sự khổ đau và an lạc. Muốn hết khổ đượcvui, không gì hơn ngay cái mầm đau khổ chúng ta đừng gieo,cái mầm an vui phải tung vãi. Không gieo nhân khổ thì quảkhổ làm gì có. Cứ tung vãi nhân vui thì quả vui không vờicũng đến. Ðây là hành động của người giác ngộ. Chúngsanh là những kẻ mê, chỉ nhìn trên cái quả mà sợ mà cầu.Luôn luôn sợ khổ cầu vui, mà nhân đau khổ không tránh, nhânan vui không tạo. Một khi quả đau khổ đến thì cầu khẩnvan xin, song làm sao qua khỏi, vì đã hình thành. Cầu mong mơước quả an vui, nhưng nhân không gây thì quả từ đâu màđến. Ðây là hình ảnh trái ngược của kẻ mê người giác.Tuy nhiên, cái mê này ai cũng có thể bỏ, cái giác này ai cũngcó thể làm. Chỉ là nhắm vào nhân là giác, ai không thểlàm được việc đó. Thế nên, Bồ-tát là chuyện tất cảchúng ta có thể làm được và chúng sanh chúng ta cũng bỏđược.

BỒ-TÁTSỢ NHÂN

Bồ-tátlà con người giác ngộ và hay làm giác ngộ người khác. Bởigiác ngộ nên thấy rõ cái gì là nhân đau khổ liền sợ hãitìm mọi cách để diệt trừ. Thấy tham lam và keo kiệt lànhân đau khổ, Bồ-tát tu bố thí để tiêu diệt nên nói bốthí độ san tham. Thấy buông lung ngạo mạn là nhân phá hoạiđức hạnh, Bồ-tát tu trì giới để khử dẹp, nên nói trìgiới độ phá giới. Thấy nóng giận là nhân gây nhiều tộilỗi. Bồ-tát tu nhẫn nhục để dẹp, nên nói, nhẫn nhụcđộ sân hận. Thấy lười biếng bê tha là nhân hư thân mấtcông đức, Bồ-tát tu tinh tấn để đánh đuổi, nên nói tinhtấn độ giải đãi. Thấy tâm tán loạn là nhân điên đảotối tăm, Bồ-tát tu thiền định để thu nhiếp, nên nói thiềnđịnh độ tán loạn. Thấy ngu si là nhân trầm luân sanh tử,Bồ-tát tu trí tuệ để chiếu phá, nên nói trí tuệ độngu si.

Sởdĩ Bồ-tát tu lục độ là để diệt trừ sáu cái nhân xấuxa tội lỗi mù tối hiểm nguy, dẫn con người đi mãi trongtrầm luân đau khổ. Khi sáu cái nhân ấy bị tiêu diệt hoàntoàn là giác ngộ giải thoát. Giai đoạn tu lục độ là đanghành hạnh Bồ-tát, đến khi giác ngộ là Bồ-tát thật sự.Phần này là tu hạnh Bồ-tát nặng về tự giác.

CHÚNGSANH SỢ QUẢ

Chúngsanh là những con người mê muội, một bề sợ khổ mà khôngbiết nguyên nhân. Thấy cái gì khổ đau đến là kinh hoàngkhiếp sợ van xin cầu cứu, mà không biết cái khổ ấy xuấtphát từ nguyên nhân nào. Khi cái khổ qua rồi, thì bình thảnnhư thường không biết gì tu sửa. Những cái quả chúng sanhsợ nhất là:

Sợngười khác giết hại mình, mà tâm giết hại người khôngbỏ. Còn ôm mưu đồ giết hại người thì quả người giếthại mình làm sao tránh khỏi. Sợ người khác lén lấy, cướpgiựt tiền bạc của cải của mình mà tâm tham lam của ngườikhông chừa. Ðã tham của người thì người tham của mìnhlà sự đương nhiên. Sợ người ta xâm phạm tiết hạnh vợcon mình, mà mình vẫn dòm ngó thèm thuồng vợ con người.Ôm lòng phá hoại sự trinh bạch của gia đình người thìngười phá hoại hạnh phúc gia đình mình khó tránh khỏi.Sợ người ta dùng lời lường gạt vu cáo mình, mà mình vẫnthích lường gạt vu cáo người. Ðã có cái nhân lường gạtvu cáo người thì quả người lường gạt vu cáo mình làmsao trốn được. Sợ say sưa như điên như dại bị ngườicười chê, mà rượu không từ không kiêng. Sẵn sàng uốngrượu thì phải chấp nhận say sưa. Ðây là những cái quảmà chúng sanh sợ hãi. Song sợ quả mà không tránh nhân, thậtlà khờ khạo ngây thơ. Ðó là nói lên tính mê muội củacon người, được gọi là chúng sanh.

BỒ-TÁTTẠO NHÂN

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát thấy bổn phận mình phải đem sựgiác ngộ lại cho mọi người. Ðể đạt mục đích ấy, Bồ-tátphải tạo dựng cho mình đầy đủ những điều thiết yếunày: Một là Bồ-tát phải thông suốt Phật pháp (nội minh).Vì mục đích dạy người tu theo đường lối giác ngộ màkhông thông suốt giáo lý Phật thì không thể thực hiện được.Hai là Bồ-tát phải thông hết các môn tâm lý học, xã hộihọc, khoa học. (ngoại minh). Có suốt thông các môn này thìsự giáo hóa không bị chướng ngại. Ba là Bồ-tát phải biếtcác môn y dược (y phương minh). Trị cho người được lànhbệnh, chỉ dạy đạo lý cho họ rất dễ dàng, vì họ cócảm tình sẵn sàng nghe mình dạy. Bốn là Bồ-tát phải họccác nghề nghiệp thật hay thật khéo (công xảo minh). Cầngiúp đỡ mọi người, chúng ta phải có tài giỏi nghề khéo,vừa chỉ dạy dân chúng, vừa gầy được nền kinh tế tốtđẹp cho đồng bào. Nhờ tài nghệ đặc biệt của mình, ngườita mới đến cầu học, là cơ hội tốt để giáo hóa họ.Năm là Bồ-tát phải giỏi ngoại ngữ (thanh minh). Muốn tiếpxúc với nhiều hạng, nhiều giống người, cần phải biếtnhiều thứ tiếng. Biết tiếng họ, chúng ta mới dễ thôngcảm và giáo hóa họ. Tạo dựng cho mình đầy đủ năm điềukiện này, Bồ-tát mới làm tròn sự nghiệp giác tha. Chúngta không thể ôm ấp lý tưởng suông rằng "thệ nguyện giáctha", khi đó nơi mình không có một chút khả năng, một ítphương tiện thì sự giác tha trở thành vô nghĩa. Trước tiênchúng ta phải tạo dựng cho mình đầy đủ điều kiện thiếtyếu (ngũ minh), sau đó mang hành lý lên vai tiến trên đườnggiác tha, chúng ta mới làm tròn nhiệm vụ.

Tạodựng cho mình đủ năm điều kiện trên rồi, Bồ-tát cònphải ứng dụng bốn việc thì sự giáo hóa mới dễ thànhtựu: Một là Bồ-tát phải sẵn sàng giúp đỡ tiền bạccủa cải hoặc sức lực của mình khi người cần. Nhờ sựgiúp đỡ người ta dễ có cảm tình, nhiếp hóa họ mới được(bố thí nhiếp). Hai là Bồ-tát phải nói lời hòa nhã dịudàng dễ mến. dù chúng ta có giúp ai bao nhiêu, mà thốt ranhững lời thô bạo họ đều bực bội chán ghét. Khéo dùnglời hiền hòa nhu nhuyến nhiếp hóa người (ái ngữ nhiếp)là dễ thành công. Ba là Bồ-tát phải xông pha làm những điềugì để đem lợi ích thiết thực cho người. Chúng ta khôngphải chỉ nói suông, mà phải làm thật sự. Ai cần điềugì có thể làm được, chúng ta phải nỗ lực làm giúp, đểđem đến kết quả lợi ích cho họ. Nhờ bàn tay của mìnhgiúp họ thành công một việc, sau đó mình đem chánh phápgiáo hóa họ, họ dễ dàng thu nhận (lợi hành nhiếp). Bốnlà Bồ-tát phải lăn xả vào trong mọi ngành mọi nghề đểcùng làm cùng sống với họ. Dễ thông cảm nhau nhất là bạnđồng nghiệp. Ðồng trong một cảnh ngộ, có bàn luận điềugì thật là dễ cảm thông. Chính chỗ chung nghề nghiệp, chúngta đem chánh pháp giáo hóa họ được sự chấp nhận khôngkhó khăn gì (đồng sự nhiếp). Bốn điều này là phươngtiện không thể thiếu của Bồ-tát trên con đường giác tha.

CHÚNGSANH CẦU QUẢ

Chúngsanh không ưa tạo nhân tốt mà mong cầu quả tốt. Quả tốtlàm gì đến được, bởi không có nhân. Tuy thế mà họ vẫnước mơ trông đợi quả tốt. Như người ta cứ mong cho mìnhđược sống lâu mạnh khỏe, mà không chịu cứu người giúpvật. Sanh mạng của người không được tôn trọng mà muốnmọi người tôn trọng sanh mạng mình là điều không thểđược. Hoặc cầu mong mình được giàu có ai nấy đều ủnghộ mình, mà không chịu làm việc bố thí, giúp đỡ ngườilúc cùng khốn. Lại có người cầu cho gia đình mình hòa vuihạnh phúc vợ con đều trinh bạch, mà không chịu sống hạnhtrinh bạch với mọi người. Cũng có người cầu xin đừngai lừa gạt mình, mà không chịu nói lời chân thật. Quảlà muốn đi bên tây mà hướng mặt về đông. Có người cầunguyện gia đình mình sum họp thuận hòa, mà không dùng lờikhuyên can cho mọi người cùng hòa hợp. Có người cầu mongđừng ai dùng lời hung ác nói với mình, mà mình không chịudùng lời hiền hòa nói với người. Có những người muốnai cũng trình bày lẽ thật với mình, mà mình không trình bàyvới người. Có những người cầu mong đừng ai tham lam vớinhững cái có của mình, mà mình không chịu bỏ lòng tham vớinhững cái có của người. Có những người cầu xin đừngai giận hờn mình, mà mình chưa chịu hỉ xả cho người. Cónhững người cầu cho mình có trí tuệ sáng suốt, mà nhữngcố chấp tà kiến không chịu bỏ. Bao nhiêu thứ cầu mongnày không bao giờ người ta toại nguyện, chỉ vì mong quảmà không chịu tạo nhân. Ðây là sự cầu mong suông của nhữngcon người mê muội.

SỰSAI BIỆT GIỮA BỒ-TÁT VÀ CHÚNG SANH

Nhìntrên cái "SỢ" giữa Bồ-tát và chúng sanh đã quá khác biệtnhau. Bồ-tát biết là nhân đau khổ liền hoảng sợ tìm mọicách để tiêu diệt chúng. Còn một chút mầm đau khổ, Bồ-tátvẫn không an. Bởi vậy Bồ-tát luôn luôn ứng dụng Lục độđể khử dẹp mọi mầm nhân đau khổ. Nhân đau khổ đã diệtsạch, quả đau khổ do đâu đến được, nên Bồ-tát khôngbao giờ quan tâm đến quả. Không sợ quả mà quả cũng khôngđến. Ngược lại, chúng sanh nom nớp sợ quả khổ, mà nhânđau khổ không ngăn ngừa, cho nên càng sợ chúng lại càngđến. Người ta khóc lóc than van khi gặp quả khổ, mà khôngchịu nhìn xem quả khổ ấy do ai gây nên. Kêu trời trách đấthận người, chỉ là việc vô ích, có khi quả khổ lại tăngthêm. Không trời Phật nào cố làm chúng ta khổ, do sự dạikhờ ngu muội của chúng ta tạo thành những nhân đau khổ,nhân đã có thì quả cố nhiên phải đến. Khóc than oán tráchchỉ làm thêm đậm nét khổ đau mà thôi.

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát cố tạo cho mình đầy đủ khả năng,nào ngũ minh, nào tứ nhiếp pháp, làm thuyền bè cứu vớtchúng sanh. Bồ-tát không mong ước viển vông, mà phải cụthể thực tế nhìn thẳng vào lẽ thật. Cho nên phải rènluyện mình có thật tài, thật đức, mới nói đến sự giáohóa mọi người. Bồ-tát không có thái độ ngây thơ như nhữngngười nói từ bi, nói thương chúng sanh, mà chỉ có ở đầumôi. Bồ-tát là con người hành động, mang trí tuệ và tàinăng của mình đi vào cuộc đời, sống bên cạnh quần chúng,như pháp "Lợi hành" và "Ðồng sự" của Tứ-nhiếp-pháp ,Bồ-tát không phải những hình ảnh thờ ở chùa ngồi trêntòa sen hay cỡi sư tử, mà là những người có kỹ năng khéoléo, mình mẩy lem luốc, đang loay hoay trong xí nghiệp, tronghãng xưởng chế tạo, tự mình làm và chỉ dạy người làm,đây là "Công xảo minh" trong Ngũ minh. Ngược lại, chúng sanhmột bề mong cầu quả đẹp, mà không tạo những nhân tốt.Quả đẹp làm sao có, khi nhân tốt chúng ta chẳng gieo. Muốngặt quả mà không gieo nhân; nếu được, quả ấy chỉ làquả gian lận, quả cướp giựt, bất chánh. Ví như có ngườithấy hàng xóm trồng cam trái chín oằn cây, mê quá lại háingang, nếu chủ vườn thấy đánh gãy tay, nếu không thấyhái được đem về, cũng là cái quả ăn cắp, cái quả xấuxa nhục nhã. Cầu quả mà không chịu gây nhân, là kẻ mơước hão huyền, xa rời thực tế, là kẻ lười biếng muốnăn mà không chịu làm. Không gây nhân cầu quả, là kẻ mêmuội nên gọi là chúng sanh.

Bồ-tátvà chúng sanh, nào có cách biệt bao nhiêu, chỉ chịu đổicái nhìn. Nhìn thẳng vào nhân để thấy rõ nhân khổ thìtránh, nhân vui thì hành là Bồ-tát. Chỉ một bề sợ quảkhổ, cầu quả vui, mà không cần biết nguyên nhân, là chúngsanh. Bồ-tát, chúng sanh trên con người không khác, chỉ kháccái nhìn nhân và nhìn quả thôi. Như hai người cùng đứngmột địa điểm, một người xây mặt về đông, một ngườixây mặt về tây; nếu nguời xây mặt về tây chịu quay lạinhìn về đông, thì đâu có khác nhau. Như thế thì tất cảchúng sanh đều có khả năng làm Bồ-tát, không phải việcBồ-tát chỉ dành riêng cho Bồ-tát, còn chúng ta không có phần.

Xuyênsuốt bài này, chúng ta thấy rõ Bồ-tát và chúng sanh cáchnhau chừng kẽ tơ sợi tóc. Chúng sanh đổi cái "sợ quả"thành "sợ nhân" là chuyển thành Bồ-tát. Thật là mê giácchỉ khác nhau một cái nhìn. Bồ-tát ở đây rất gần gũithân thiết với chúng sanh. Có khi là ông thầy giảng kinh chomọi người nghe, đâu không phải là Bồ-tát, vì ngài thôngsuốt "Nội minh". Có lúc là ông thầy xem mạch bốc thuốccho mọi người, âu cũng là Bồ-tát, vì ngài thực hành "Yphương minh". Một người thợ giỏi đang hướng dẫn chỉdạy đàn em với nhiệt tình không vụ lợi, biết đâu chừngcũng là Bồ-tát, vì ngài thực hiện "Công xảo minh". Cho đếnngười bạn cùng cuốc rẫy trồng khoai mà nói đạo lý chânthật chúng ta nghe, ai ngờ là Bồ-tát, vì Ngài thực hành "Ðồngsự nhiếp". Bồ-tát là những con người thiết thân với chúngta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ thấy rõ nhân ác để tránh,nhân thiện để tạo. Còn chúng ta chỉ một bề sợ quả khổcầu quả vui, mà không chịu thấy tường tận nguyên nhâncủa nó. Gần đây bên ngành y học cũng có câu "ngừa bệnhhơn chữa bệnh", cũng na ná sợ nhân hơn là sợ quả. ÐạoPhật là đạo giác ngộ, thấy nguyên nhân rõ ràng là giác,giác là Bồ-tát. Chúng ta tu theo Phật là đi trên con đườnggiác, xét rõ nguyên nhân của mọi việc xảy ra để ngừatránh là theo hạnh Bồ-tát. Mọi người chúng ta đều có khảnăng thực hiện việc "sợ nhân", thì chúng ta ai cũng làm Bồ-tátđược.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 818)
Rồi tôi đi sâu vào vườn trầm, đi mãi vào ...rừng trầm để mong tìm những cây trầm đại thụ, và tôi đã gặp bao cao Tăng tu hành tại đây, không chỉ các sư tại Âu Châu mà còn từ Hoa Kỳ, Úc, Canada ...nữa cơ. Các vị đã trao cho tôi bao trầm hương qua lời giảng của quí Sư dựa theo lời dạy của Đức Phật. Những thỏi trầm quí mang tên: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Phổ Môn, Chú Đại Bi, Thập Chú, Thần Chú..v.v..và.v.v.Ôi, nhiều lắm, rồi với thời gian, nếu thành tâm trân quí và nắm giữ những thỏi trầm, thì hương trầm của nó cũng ít nhiều tỏa hương thơm ngát đánh bạt những sú uế mà bụi đời đã phủ lên người chúng ta.
15/03/2023(Xem: 4060)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
23/09/2022(Xem: 2256)
Giáo lý Bốn thánh đế là giáo pháp quan trọng nhất của những người học và tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Cho dù chúng ta thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ hay truyền thống Đại Thừa cũng đều tu học từ nền tảng giáo pháp này. Trong Bốn thánh đế thì đạo thánh đế gồm 37 pháp và thường được gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong đó thì Bát chánh đạo là căn bản nhất vì “Bát chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu” (Trong Tạp A-hàm, Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo, số 785 và Trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch).
17/11/2021(Xem: 20362)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10670)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
03/09/2021(Xem: 5798)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
08/10/2020(Xem: 7993)
1- Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì làm, tới đâu thì tới. 2- Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. 3- Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn nhịn để vượt qua. 4- Ăn chay, thương người, thương vật, tụng kinh. 5- Việc ác chớ để phạm, điều lành phải nên làm. 6- Thương người cùng thương vật, niệm Phật và tham thiền. 7- Chánh niệm đứng đầu là 3 niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 8- "Hằng ngày ăn thịt chúng sanh mà mong giải thoát, điều đó không bao giờ có điều đó được". 9- Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 10- Thông minh hiểu biết nhiều, coi chừng không bằng ông già bà lão ăn chay niệm Phật.
01/03/2020(Xem: 11956)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7303)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
17/04/2019(Xem: 5100)
Những pháp thoại của Lama Yeshe là độc nhất vô nhị. Không ai thuyết giảng được như đức Lama. Tự nhiên lưu xuất trong tâm, trực tiếp ngay bây giờ; mỗi lời nói của ngài là một cẩm nang hướng dẫn để thực tập. Tiếng anh của đức Lama rất tốt. Khó có người sử dụng nhuần nhuyễn như ngài. Với tính sáng tạo cao, đức Lama đã biểu hiện chính mình không chỉ qua lời nói, mà còn thể hiện tự thân và trên khuôn mặt. Làm sao để chuyển tải hết sự truyền trao huyền diệu này trên trang giấy? Như đã đề cập ở chỗ khác, chúng tôi trình bày với yêu cầu này cách tốt nhất có thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567