Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

28/01/201109:41(Xem: 10562)
19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Bồ-tátsợnhân chúng sanh sợ quả

Là conngười ai cũng sợ khổ cầu vui, song người mê chỉ biếtsợ quả khổ cầu quả vui. Ngược lại người tỉnh chỉsợ nhân khổ, tạo nhân vui. Hai bên có cái nhìn khác nhau,bên nào sẽ đạt được như sở nguyện? Dù ngây thơ thếmấy, người ta vẫn biết, không tạo nhân lành mà cầu quảtốt là chuyện không đâu; sợ quả khổ mà cứ tạo nhânác là việc khó tránh. Nhân ác không gây, dù chẳng sợ quảkhổ, nó vẫn không đến; nhân lành cứ tạo, dù chẳng cầuquả vui, nó vẫn bò sang. Cho nên người trí nhìn từ cái nhânmà chọn lựa, chọn nhân lành bỏ nhân ác. Cả đời mãi gâytạo nhân lành, loại trừ nhân ác, người này bảo đảm gặthái những kết quả đẹp đẽ an vui. Ai say sưa tạo nhân ác,chẳng bao giờ nghĩ tới nhân lành, chắc chắn sẽ thu lượmđược muôn vàn đau khổ, dù họ sợ sệt khẩn cầu quảấy đừng đến. Cho nên câu châm ngôn nhà Phật, ít Phậttử nào không thuộc, là "Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợquả".

NGHĨABỒ-TÁTVÀ CHÚNG SANH

Bồ-tát(Bodhisavattu) là người giác ngộ, thấy tận cái manh nha cáiđầu mối của sự khổ đau và an lạc. Muốn hết khổ đượcvui, không gì hơn ngay cái mầm đau khổ chúng ta đừng gieo,cái mầm an vui phải tung vãi. Không gieo nhân khổ thì quảkhổ làm gì có. Cứ tung vãi nhân vui thì quả vui không vờicũng đến. Ðây là hành động của người giác ngộ. Chúngsanh là những kẻ mê, chỉ nhìn trên cái quả mà sợ mà cầu.Luôn luôn sợ khổ cầu vui, mà nhân đau khổ không tránh, nhânan vui không tạo. Một khi quả đau khổ đến thì cầu khẩnvan xin, song làm sao qua khỏi, vì đã hình thành. Cầu mong mơước quả an vui, nhưng nhân không gây thì quả từ đâu màđến. Ðây là hình ảnh trái ngược của kẻ mê người giác.Tuy nhiên, cái mê này ai cũng có thể bỏ, cái giác này ai cũngcó thể làm. Chỉ là nhắm vào nhân là giác, ai không thểlàm được việc đó. Thế nên, Bồ-tát là chuyện tất cảchúng ta có thể làm được và chúng sanh chúng ta cũng bỏđược.

BỒ-TÁTSỢ NHÂN

Bồ-tátlà con người giác ngộ và hay làm giác ngộ người khác. Bởigiác ngộ nên thấy rõ cái gì là nhân đau khổ liền sợ hãitìm mọi cách để diệt trừ. Thấy tham lam và keo kiệt lànhân đau khổ, Bồ-tát tu bố thí để tiêu diệt nên nói bốthí độ san tham. Thấy buông lung ngạo mạn là nhân phá hoạiđức hạnh, Bồ-tát tu trì giới để khử dẹp, nên nói trìgiới độ phá giới. Thấy nóng giận là nhân gây nhiều tộilỗi. Bồ-tát tu nhẫn nhục để dẹp, nên nói, nhẫn nhụcđộ sân hận. Thấy lười biếng bê tha là nhân hư thân mấtcông đức, Bồ-tát tu tinh tấn để đánh đuổi, nên nói tinhtấn độ giải đãi. Thấy tâm tán loạn là nhân điên đảotối tăm, Bồ-tát tu thiền định để thu nhiếp, nên nói thiềnđịnh độ tán loạn. Thấy ngu si là nhân trầm luân sanh tử,Bồ-tát tu trí tuệ để chiếu phá, nên nói trí tuệ độngu si.

Sởdĩ Bồ-tát tu lục độ là để diệt trừ sáu cái nhân xấuxa tội lỗi mù tối hiểm nguy, dẫn con người đi mãi trongtrầm luân đau khổ. Khi sáu cái nhân ấy bị tiêu diệt hoàntoàn là giác ngộ giải thoát. Giai đoạn tu lục độ là đanghành hạnh Bồ-tát, đến khi giác ngộ là Bồ-tát thật sự.Phần này là tu hạnh Bồ-tát nặng về tự giác.

CHÚNGSANH SỢ QUẢ

Chúngsanh là những con người mê muội, một bề sợ khổ mà khôngbiết nguyên nhân. Thấy cái gì khổ đau đến là kinh hoàngkhiếp sợ van xin cầu cứu, mà không biết cái khổ ấy xuấtphát từ nguyên nhân nào. Khi cái khổ qua rồi, thì bình thảnnhư thường không biết gì tu sửa. Những cái quả chúng sanhsợ nhất là:

Sợngười khác giết hại mình, mà tâm giết hại người khôngbỏ. Còn ôm mưu đồ giết hại người thì quả người giếthại mình làm sao tránh khỏi. Sợ người khác lén lấy, cướpgiựt tiền bạc của cải của mình mà tâm tham lam của ngườikhông chừa. Ðã tham của người thì người tham của mìnhlà sự đương nhiên. Sợ người ta xâm phạm tiết hạnh vợcon mình, mà mình vẫn dòm ngó thèm thuồng vợ con người.Ôm lòng phá hoại sự trinh bạch của gia đình người thìngười phá hoại hạnh phúc gia đình mình khó tránh khỏi.Sợ người ta dùng lời lường gạt vu cáo mình, mà mình vẫnthích lường gạt vu cáo người. Ðã có cái nhân lường gạtvu cáo người thì quả người lường gạt vu cáo mình làmsao trốn được. Sợ say sưa như điên như dại bị ngườicười chê, mà rượu không từ không kiêng. Sẵn sàng uốngrượu thì phải chấp nhận say sưa. Ðây là những cái quảmà chúng sanh sợ hãi. Song sợ quả mà không tránh nhân, thậtlà khờ khạo ngây thơ. Ðó là nói lên tính mê muội củacon người, được gọi là chúng sanh.

BỒ-TÁTTẠO NHÂN

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát thấy bổn phận mình phải đem sựgiác ngộ lại cho mọi người. Ðể đạt mục đích ấy, Bồ-tátphải tạo dựng cho mình đầy đủ những điều thiết yếunày: Một là Bồ-tát phải thông suốt Phật pháp (nội minh).Vì mục đích dạy người tu theo đường lối giác ngộ màkhông thông suốt giáo lý Phật thì không thể thực hiện được.Hai là Bồ-tát phải thông hết các môn tâm lý học, xã hộihọc, khoa học. (ngoại minh). Có suốt thông các môn này thìsự giáo hóa không bị chướng ngại. Ba là Bồ-tát phải biếtcác môn y dược (y phương minh). Trị cho người được lànhbệnh, chỉ dạy đạo lý cho họ rất dễ dàng, vì họ cócảm tình sẵn sàng nghe mình dạy. Bốn là Bồ-tát phải họccác nghề nghiệp thật hay thật khéo (công xảo minh). Cầngiúp đỡ mọi người, chúng ta phải có tài giỏi nghề khéo,vừa chỉ dạy dân chúng, vừa gầy được nền kinh tế tốtđẹp cho đồng bào. Nhờ tài nghệ đặc biệt của mình, ngườita mới đến cầu học, là cơ hội tốt để giáo hóa họ.Năm là Bồ-tát phải giỏi ngoại ngữ (thanh minh). Muốn tiếpxúc với nhiều hạng, nhiều giống người, cần phải biếtnhiều thứ tiếng. Biết tiếng họ, chúng ta mới dễ thôngcảm và giáo hóa họ. Tạo dựng cho mình đầy đủ năm điềukiện này, Bồ-tát mới làm tròn sự nghiệp giác tha. Chúngta không thể ôm ấp lý tưởng suông rằng "thệ nguyện giáctha", khi đó nơi mình không có một chút khả năng, một ítphương tiện thì sự giác tha trở thành vô nghĩa. Trước tiênchúng ta phải tạo dựng cho mình đầy đủ điều kiện thiếtyếu (ngũ minh), sau đó mang hành lý lên vai tiến trên đườnggiác tha, chúng ta mới làm tròn nhiệm vụ.

Tạodựng cho mình đủ năm điều kiện trên rồi, Bồ-tát cònphải ứng dụng bốn việc thì sự giáo hóa mới dễ thànhtựu: Một là Bồ-tát phải sẵn sàng giúp đỡ tiền bạccủa cải hoặc sức lực của mình khi người cần. Nhờ sựgiúp đỡ người ta dễ có cảm tình, nhiếp hóa họ mới được(bố thí nhiếp). Hai là Bồ-tát phải nói lời hòa nhã dịudàng dễ mến. dù chúng ta có giúp ai bao nhiêu, mà thốt ranhững lời thô bạo họ đều bực bội chán ghét. Khéo dùnglời hiền hòa nhu nhuyến nhiếp hóa người (ái ngữ nhiếp)là dễ thành công. Ba là Bồ-tát phải xông pha làm những điềugì để đem lợi ích thiết thực cho người. Chúng ta khôngphải chỉ nói suông, mà phải làm thật sự. Ai cần điềugì có thể làm được, chúng ta phải nỗ lực làm giúp, đểđem đến kết quả lợi ích cho họ. Nhờ bàn tay của mìnhgiúp họ thành công một việc, sau đó mình đem chánh phápgiáo hóa họ, họ dễ dàng thu nhận (lợi hành nhiếp). Bốnlà Bồ-tát phải lăn xả vào trong mọi ngành mọi nghề đểcùng làm cùng sống với họ. Dễ thông cảm nhau nhất là bạnđồng nghiệp. Ðồng trong một cảnh ngộ, có bàn luận điềugì thật là dễ cảm thông. Chính chỗ chung nghề nghiệp, chúngta đem chánh pháp giáo hóa họ được sự chấp nhận khôngkhó khăn gì (đồng sự nhiếp). Bốn điều này là phươngtiện không thể thiếu của Bồ-tát trên con đường giác tha.

CHÚNGSANH CẦU QUẢ

Chúngsanh không ưa tạo nhân tốt mà mong cầu quả tốt. Quả tốtlàm gì đến được, bởi không có nhân. Tuy thế mà họ vẫnước mơ trông đợi quả tốt. Như người ta cứ mong cho mìnhđược sống lâu mạnh khỏe, mà không chịu cứu người giúpvật. Sanh mạng của người không được tôn trọng mà muốnmọi người tôn trọng sanh mạng mình là điều không thểđược. Hoặc cầu mong mình được giàu có ai nấy đều ủnghộ mình, mà không chịu làm việc bố thí, giúp đỡ ngườilúc cùng khốn. Lại có người cầu cho gia đình mình hòa vuihạnh phúc vợ con đều trinh bạch, mà không chịu sống hạnhtrinh bạch với mọi người. Cũng có người cầu xin đừngai lừa gạt mình, mà không chịu nói lời chân thật. Quảlà muốn đi bên tây mà hướng mặt về đông. Có người cầunguyện gia đình mình sum họp thuận hòa, mà không dùng lờikhuyên can cho mọi người cùng hòa hợp. Có người cầu mongđừng ai dùng lời hung ác nói với mình, mà mình không chịudùng lời hiền hòa nói với người. Có những người muốnai cũng trình bày lẽ thật với mình, mà mình không trình bàyvới người. Có những người cầu mong đừng ai tham lam vớinhững cái có của mình, mà mình không chịu bỏ lòng tham vớinhững cái có của người. Có những người cầu xin đừngai giận hờn mình, mà mình chưa chịu hỉ xả cho người. Cónhững người cầu cho mình có trí tuệ sáng suốt, mà nhữngcố chấp tà kiến không chịu bỏ. Bao nhiêu thứ cầu mongnày không bao giờ người ta toại nguyện, chỉ vì mong quảmà không chịu tạo nhân. Ðây là sự cầu mong suông của nhữngcon người mê muội.

SỰSAI BIỆT GIỮA BỒ-TÁT VÀ CHÚNG SANH

Nhìntrên cái "SỢ" giữa Bồ-tát và chúng sanh đã quá khác biệtnhau. Bồ-tát biết là nhân đau khổ liền hoảng sợ tìm mọicách để tiêu diệt chúng. Còn một chút mầm đau khổ, Bồ-tátvẫn không an. Bởi vậy Bồ-tát luôn luôn ứng dụng Lục độđể khử dẹp mọi mầm nhân đau khổ. Nhân đau khổ đã diệtsạch, quả đau khổ do đâu đến được, nên Bồ-tát khôngbao giờ quan tâm đến quả. Không sợ quả mà quả cũng khôngđến. Ngược lại, chúng sanh nom nớp sợ quả khổ, mà nhânđau khổ không ngăn ngừa, cho nên càng sợ chúng lại càngđến. Người ta khóc lóc than van khi gặp quả khổ, mà khôngchịu nhìn xem quả khổ ấy do ai gây nên. Kêu trời trách đấthận người, chỉ là việc vô ích, có khi quả khổ lại tăngthêm. Không trời Phật nào cố làm chúng ta khổ, do sự dạikhờ ngu muội của chúng ta tạo thành những nhân đau khổ,nhân đã có thì quả cố nhiên phải đến. Khóc than oán tráchchỉ làm thêm đậm nét khổ đau mà thôi.

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát cố tạo cho mình đầy đủ khả năng,nào ngũ minh, nào tứ nhiếp pháp, làm thuyền bè cứu vớtchúng sanh. Bồ-tát không mong ước viển vông, mà phải cụthể thực tế nhìn thẳng vào lẽ thật. Cho nên phải rènluyện mình có thật tài, thật đức, mới nói đến sự giáohóa mọi người. Bồ-tát không có thái độ ngây thơ như nhữngngười nói từ bi, nói thương chúng sanh, mà chỉ có ở đầumôi. Bồ-tát là con người hành động, mang trí tuệ và tàinăng của mình đi vào cuộc đời, sống bên cạnh quần chúng,như pháp "Lợi hành" và "Ðồng sự" của Tứ-nhiếp-pháp ,Bồ-tát không phải những hình ảnh thờ ở chùa ngồi trêntòa sen hay cỡi sư tử, mà là những người có kỹ năng khéoléo, mình mẩy lem luốc, đang loay hoay trong xí nghiệp, tronghãng xưởng chế tạo, tự mình làm và chỉ dạy người làm,đây là "Công xảo minh" trong Ngũ minh. Ngược lại, chúng sanhmột bề mong cầu quả đẹp, mà không tạo những nhân tốt.Quả đẹp làm sao có, khi nhân tốt chúng ta chẳng gieo. Muốngặt quả mà không gieo nhân; nếu được, quả ấy chỉ làquả gian lận, quả cướp giựt, bất chánh. Ví như có ngườithấy hàng xóm trồng cam trái chín oằn cây, mê quá lại háingang, nếu chủ vườn thấy đánh gãy tay, nếu không thấyhái được đem về, cũng là cái quả ăn cắp, cái quả xấuxa nhục nhã. Cầu quả mà không chịu gây nhân, là kẻ mơước hão huyền, xa rời thực tế, là kẻ lười biếng muốnăn mà không chịu làm. Không gây nhân cầu quả, là kẻ mêmuội nên gọi là chúng sanh.

Bồ-tátvà chúng sanh, nào có cách biệt bao nhiêu, chỉ chịu đổicái nhìn. Nhìn thẳng vào nhân để thấy rõ nhân khổ thìtránh, nhân vui thì hành là Bồ-tát. Chỉ một bề sợ quảkhổ, cầu quả vui, mà không cần biết nguyên nhân, là chúngsanh. Bồ-tát, chúng sanh trên con người không khác, chỉ kháccái nhìn nhân và nhìn quả thôi. Như hai người cùng đứngmột địa điểm, một người xây mặt về đông, một ngườixây mặt về tây; nếu nguời xây mặt về tây chịu quay lạinhìn về đông, thì đâu có khác nhau. Như thế thì tất cảchúng sanh đều có khả năng làm Bồ-tát, không phải việcBồ-tát chỉ dành riêng cho Bồ-tát, còn chúng ta không có phần.

Xuyênsuốt bài này, chúng ta thấy rõ Bồ-tát và chúng sanh cáchnhau chừng kẽ tơ sợi tóc. Chúng sanh đổi cái "sợ quả"thành "sợ nhân" là chuyển thành Bồ-tát. Thật là mê giácchỉ khác nhau một cái nhìn. Bồ-tát ở đây rất gần gũithân thiết với chúng sanh. Có khi là ông thầy giảng kinh chomọi người nghe, đâu không phải là Bồ-tát, vì ngài thôngsuốt "Nội minh". Có lúc là ông thầy xem mạch bốc thuốccho mọi người, âu cũng là Bồ-tát, vì ngài thực hành "Yphương minh". Một người thợ giỏi đang hướng dẫn chỉdạy đàn em với nhiệt tình không vụ lợi, biết đâu chừngcũng là Bồ-tát, vì ngài thực hiện "Công xảo minh". Cho đếnngười bạn cùng cuốc rẫy trồng khoai mà nói đạo lý chânthật chúng ta nghe, ai ngờ là Bồ-tát, vì Ngài thực hành "Ðồngsự nhiếp". Bồ-tát là những con người thiết thân với chúngta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ thấy rõ nhân ác để tránh,nhân thiện để tạo. Còn chúng ta chỉ một bề sợ quả khổcầu quả vui, mà không chịu thấy tường tận nguyên nhâncủa nó. Gần đây bên ngành y học cũng có câu "ngừa bệnhhơn chữa bệnh", cũng na ná sợ nhân hơn là sợ quả. ÐạoPhật là đạo giác ngộ, thấy nguyên nhân rõ ràng là giác,giác là Bồ-tát. Chúng ta tu theo Phật là đi trên con đườnggiác, xét rõ nguyên nhân của mọi việc xảy ra để ngừatránh là theo hạnh Bồ-tát. Mọi người chúng ta đều có khảnăng thực hiện việc "sợ nhân", thì chúng ta ai cũng làm Bồ-tátđược.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/02/2019(Xem: 7816)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
14/08/2018(Xem: 7462)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
03/02/2018(Xem: 16588)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
06/01/2018(Xem: 15489)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
22/05/2017(Xem: 53700)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
19/03/2017(Xem: 7643)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn quyển sách nhỏ này, nhằm hướng dẫn cho người cư sĩ tại gia tập sống cuộc đời thánh thiện, theo lời Phật dạy. Chúng tôi cố gắng trình bày các nguyên tắc này theo sự hiểu biết có giới hạn của mình, sau một thời gian ứng dụng tu học cảm thấy có chút an lạc. Để giúp cho người cư sĩ tại gia thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình người thân và cộng đồng xã hội. Trước tiên, chúng ta cần phải có một niềm tin vững chắc sau khi học hỏi, có tư duy sâu sắc, có quán chiếu chiêm nghiệm như lời Phật dạy sau đây: Này các thiện nam, tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài,
19/03/2017(Xem: 7169)
Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả. Một gia đình nọ, hai cha con cùng dạo chơi trong khu vườn nhà của họ. Bổng nhiên đứa con hỏi bố: “Bố ơi bố, nhà chúng ta có giàu không ạ?” Ông bố nghe xong liền mỉm cười, xoa đầu cậu con trai, rồi nói: “Bố có tiền, nhưng con không có. Tiền của bố là do bố tự mình siêng năng tích cực làm ra bằng đôi bàn tay và khối óc, được tích lũy trong nhiều năm tháng. Sau này con muốn giàu có như bố, trước tiên con phải học và chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính, con cũng có thể thông qua nghề nghiệp của mình mà kiếm được tiền.”
17/03/2017(Xem: 6997)
1-Người Phật tử, phải thắng sự lười biếng bởi thái độ ỷ lại hay dựa dẫm vào người khác mà cầu khẩn van xin để đánh mất chính mình. 2-Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nổ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa khi mọi việc chưa được tốt đẹp để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực. 3-Người Phật tử chân chính, cương quyết phải thắng sự thiếu quyết tâm khi muốn làm việc thiện vì đó là trách nhiệm và bổn phận của người có lòng từ bi hỷ xả.
16/03/2017(Xem: 7109)
1-Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc. 2-Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ nhờ nghe và biết chiêm nghiệm để rồi tu sửa. 3-Người Phật tử dù thắng trăm vạn quân cũng không bằng chiến thắng những thói hư tật xấu của mình, đó là chiến công oanh liệt nhất mà người đời ít ai làm được. 4-Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình, nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.
14/03/2017(Xem: 6117)
Ngài là Thái tử, tên Sĩ Đạt Ta Có mẹ có cha, giống như mọi người. Mẹ là hoàng hậu, Thánh mẫu Ma Da Đức vua Tịnh Phạn, là cha của Ngài. Ngày rằm tháng tư, Thái tử ra đời Sinh xong bảy ngày, hoàng hậu sanh thiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]