Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18-Hoa sen trong bùn

28/01/201109:41(Xem: 8638)
18-Hoa sen trong bùn

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Hoa sentrong bùn

Có lắmngười xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu khôngthể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có nhữngnhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; cònchúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu,nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độnv.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìnThái tử là một con người, thật là người để lấy làmmẫu mực hướng theo tu hành.

THÁITỬTẤT-ÐẠT-ÐA (Siddharta) - SỐNG TRONG HOÀNG CUNG

Khilà một ông hoàng ở trong cung cấm, Thái tử bị mọi thứdục lạc bủa vây: nào là vợ đẹp, hầu xinh, Ngài có cảthảy ba bà vợ, bà Cu-tỳ-gia (Gapica), bà Gia-du-đà-la (Yasodhara),bà Lộc giả (Urganica) và cung phi mỹ nữ. Nào là đàn ngọthát hay, cả ngày âm thanh dằng dặc không dừng nghỉ. Nàolà sự chiều chuộng của vua cha, xây cung điện thích hợpbốn mùa, tạo cảnh vui thích không để Ngài có một phútđăm chiêu. Ðây là cảnh thiên đàng ngay trong trần thế, Ngàivui hưởng cảnh này đến năm mười chín tuổi.

THÁITỬ ÐI TU VÀ THÀNH PHẬT

Chỉmột lần Thái tử trông thấy cảnh già, bệnh, chết củacon người, Ngài khổ đau trằn trọc. Tại sao người ta phảichấp nhận lớp người này sanh ra, già, bệnh, chết, rồilớp khác tiếp tục, cứ thế tiếp tục mãi không có ngàycùng? Ngài cương quyết đập tan cái tiền lệ ấy. Vì thế,bao đêm Ngài thức trắng, lòng Ngài băn khoăn đau xót giàyvò, cốt tìm ra lối thoát để cứu mình, cứu chúng sanh. Từđây, sắc đẹp hát hay, trở thành trơ trẽn tầm thườngtrước mắt Ngài. Thức ngon vị ngọt, trở thành nhạt nhẽochán ngán, khi chúng để vào miệng Ngài. Ngài ê chề ngánngẩm mọi thứ dục lạc tạm bợ trá hình. Ngài cương quyếtrời hoàng cung xuất gia tầm đạo. Mặc dù con đường nàygiăng trải trước mắt Ngài muôn vàn nguy hiểm thập tử nhấtsanh, Ngài chấp nhận phải dấn bước. Thế là Ngài xuấtgia lúc mười chín tuổi.

Baonhiêu năm lang thang trong rừng sâu học đạo, con người vươnggiả của Ngài đã pha màu sương gió, đã từng trải mọithứ đắng cay, song ý chí kiên cường quả cảm của Ngàikhông suy giảm. Học đạo không thỏa mãn, Ngài nguyện thựchành khổ hạnh tột cùng. Nhưng thân sắp hoại mà đạo chưathấy, Ngài phải sống trung hòa và đến dưới cội bồ-đềngồi tu bốn mươi chín ngày đêm liền ngộ đạo. Ngang đây,Ngài thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ðã qua rồi, con đườngtầm đạo ngót mười một năm.

Saukhi Ngài thành Phật, Ngài nhìn hồ sen thấy có những hoa đãnở tròn đầy, có những hoa còn búp son trinh, có những hoađang trụ hình trong nước, có những mầm sen còn vùi trongbùn nhơ. Song tất cả đều có khả năng nở tròn khoe sắc,nhả hương tinh khiết. Chúng đồng trong lòng đất nhớp nhúavươn lên, khi được hớp sương phơi nắng, chúng đều trònđủ sắc hương như nhau. Ngài thấy con người cũng thế, khisanh ra và lớn lên trong vòng mê dục, một phen tỉnh giác conngười sẽ tiến lên bậc giác ngộ khó gì. Thế là, Ngàilấy hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của Ngài.Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là hình ảnh cụ thể nhất.

PHẬTNGỒI TRÊN ÐÀI SEN

Chúngta đọc lịch sử Phật, ai cũng biết Bồ-tát đến cội bồ-đềtrải cỏ làm tòa ngồi, và thành đạo ngay dưới cội câynày. Hiện nay chúng ta thờ Phật đúng theo tài liệu lịchsử, phải để Ngài ngồi trên tòa cỏ. Tại sao ngày nay chùanào thờ Phật cũng ngồi trên tòa sen? Ðây là để biểu trưngcon người của Ngài. Vì trước kia là ông hoàng, Ngài cũngnhiễm ô ngũ dục, như mầm sen còn ở trong bùn. Khi Ngài vượtthành xuất gia là mầm sen ra khỏi bùn, mà còn ở trong nước.Lúc Ngài ngồi tu ở dưới cội bồ-đề và thành đạo làhoa sen ra khỏi nước nở tròn đầy hương thơm ngào ngạt.Hoa sen lại tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi người.Ðã là mầm sen thì mầm sen nào cũng có khả năng vươn lênkhỏi bùn, khỏi nước và trổ hoa tươi thắm hương thơm ngạtngào. Ðã là con người thì con người nào cũng có khả năngthoát khỏi dục lạc ô nhiễm, thức tỉnh tu hành và đạtthành đạo quả. Phật quả không phải của riêng một ngườinào, mà của chung tất cả ai có ý chí thoát trần, có quyếttâm đạt đạo. Vì vậy, Phật quả gọi là Vô thượng giác,là giác ngộ không ai trên, song có người bằng; Phật cũngdùng hình ảnh hoa sen để nhắc nhở Phật tử, ở giữa chốnô nhiễm mà khéo vượt ra bằng trí tuệ sáng ngời của mình.

Bàikệ nói :

Nhưgiữa đống rác nhớp.
Quăngbỏnơi bờ đầm
Chỗấyhoa sen nở.
Thơmsạchđẹp ý người.
Cũngvậy,giữa quần sanh.
Uế,nhiễm,mù, phàm tục
Ðệtửbậc Chánh Giác.
Sángngờivới trí tuệ. -- (Pháp cú câu 58-59)
Hoa senmọc chỗ nhớp nhúa mà thơm tho tươi đẹp, sống trong đờinhiễm nhơ mù tối, người Phật tử chúng ta phải khéo dùngtrí tuệ vượt ra để cứu mình, và cứu người. Cái quícủa hoa sen là sanh từ chốn bùn lầy mà tinh khiết, cái caocả của người tu là sống trong mọi dục lạc nhiễm ô màvượt ra an toàn siêu thoát. Hoa hường, hoa lan thơm hơn hoasen, mà không được nhắc tới, vì sanh ở chỗ đất sạch.Nếu Thái tử là người từ trên trời rơi xuống mà đắcđạo thì không có giá trị gì. Chính trong vòng kềm tỏa củadục trần, mà thoát được mới là bậc đại hùng.

CÁNHẢYKHỎI LƯỚI

ÐờiTống ở Trung Hoa có hai Thượng tọa Thâm và Minh. Hai vị códuyên sự cùng sang đò qua sông Hoài. Ðang sang sông, thấy ngườibủa lưới đang kéo, có con cá to nhảy khỏi lưới ra ngoài.Thượng tọa Thâm vỗ tay khen: "Hay thay! Như Thiền sư." Thượngtọa Minh không đồng ý bảo: "Phải ở ngoài lưới mới hay,đợi vào lưới rồi mới nhảy là muộn." Thượng tọa Thâmnói: "Huynh Minh chưa hiểu." Ði hơn dặm đường, Thượng tọaMinh bỗng nhận ra chỗ sai, liền sám hối.

Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Con cá trong lướinhảy là hay, con cá thong dong ngoài lưới là hay? Ðạo lý nhàPhật dạy, trong cảnh bủa vây của phiền não mà thoát rađược mới thật là hay. Ðây mới thi thố được sức mạnhphi thường của con người thoát tục. Nếu ở ngoài lướinói gì nhảy, không nhảy làm sao biết được sức mạnh củamình. Hơn nữa, bản thân con người đầy đủ tam bành (tamđộc), lục tặc (sáu giặc) lại sáu trần dụ dỗ cuốn lôi,nếu không phải là bậc siêu quần bạt tụy làm sao thắngtrận giặc nội công ngoại kích này. Cùng là cá, bao nhiêucon khác bị lưới cuốn không thể giãy vùng, cuối cùng bịngười đánh cá bắt bỏ vào giỏ, chỉ một con này nhảyvọt khỏi lưới, không đồng với người xuất trần thoáttục là gì? Nếu chúng ta sanh ra đã là Thánh thì còn nói gìtu. Chính vì chúng ta mang đầy đủ thói hư tật xấu trongmình, chứa đầy tham sân si trong lòng, cho nên gặp cảnh thìnhiễm, trái ý thì sân, quẳng chúng thoát ra, thật là điềukhó khăn trăm phần, ai làm được điều đó, đáng cho chúngta chấp tay tán thán. Vì thế, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làmbài kệ:

XUẤTTRẦN

Tằngvivật dục dịch lao khu
Bàilạctrần hiêu thế ngoại du
Tánthủna biên siêu Phật Tổ
Nhấthồiđẩu tẩu nhất hồi hưu.

Dịch:
RAKHỎI BỤI HỒNG

Ðãtừng ham muốn phải long đong
Némquáchmà ra khỏi bụi hồng
Buôngthõngbờ kia lên Phật Tổ
Mộtlầnphủi giũ một lần xong.

Bởivì chúng ta chạy theo vật dục nhân gian nên phải khổ sởgian nan. Nếu can đảm ném phắt hết, vượt ra ngoài vòng trầnlụy, quả là can đảm phi thường. Có thể, mới buông thõngtay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Song phải mạnh dạndứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Chớ đừnghọc thói nhầy nhụa, dùng dùng thẳng thẳng cắt không đứt,bứt không rời, một chân bước tới hai chân bước lui, khônglàm nên trò trống gì, chỉ chuốc trò cười cho hàng thứcgiả. Bởi vậy nên nhà thiền thường dùng câu "giết ngườikhông ngó lại" là ý này. Phải can đảm dứt khoát thì việckhó mấy cũng thành công.

TRẦNNHÂNTÔNG: ÔNG VUA, TU SĨ

VuaTrần Nhân Tông sanh năm 1258, lên ngôi vua năm hai mươi tuổi,xuất gia năm bốn mươi mốt tuổi và năm mươi mốt tuổitịch (1308). Suốt hai mươi năm, Ngài là bậc nhân chủ lãnhđạo quốc gia giữ nước chăn dân, ngồi trên ngai vàng sốngtrong cung ngọc, mọi thứ dục lạc đều dư thừa. Hai phencầm quân chống giặc xâm lăng, nhân mạng hy sinh rất lớn.Bổn phận giữ nước chăn dân, Ngài làm đầy đủ. Năm bốnmươi mốt tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, đi xuất gia. Lúcnhỏ Ngài đã được vua cha và thầy là Tuệ Trung Thượngsĩ chỉ dạy đạo lý thiền nhuần thấm sâu xa, nên khi xuấtgia Ngài không cần tầm học, chỉ thực hiện điều đã họcđược.

Trongmười năm, là kẻ xuất gia Ngài mang hiệu Trúc Lâm Ðầu-đà,tích cực hoạt động truyền bá chánh pháp. Trong giới xuấtgia, Ngài giáo dục chúng Tăng, có khả năng đảm đang giáohội. Trong dân chúng, Ngài đem pháp Thập thiện giáo hóa toàndân, khiến Phật pháp mở rộng trong nhân gian. Công tác hoằngtruyền Phật pháp, giáo hóa nhân dân, Ngài làm suốt đờikhông dừng nghỉ.

Khisắp tịch, Ngài nằm tại Ngọa Vân am sai người gọi BảoSát đến. Ngày một tháng mười một, đúng nửa đêm, saosáng đầy trời, Ngài hỏi: Bây giờ là giờ gì? Bảo Sátthưa: Giờ Tý. Ngài đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìnra ngoài, nói: Ðến giờ ta đi vậy. Bảo Sát hỏi: Tôn đứcđi đâu bây giờ? Ngài đọc lại bài kệ:

Nhấtthiết pháp bất sanh
Nhấtthiếtpháp bất diệt
Nhượcnăngnhư thị giải
ChưPhậtthường hiện tiền
Hàkhứlai chi hữu?
Dịch:
Tấtcả pháp chẳng sanh
Tấtcảpháp chẳng diệt
Nếuhiểuđược như thế
ChưPhậtthường hiện tiền
Nàocóđi có lại?
BảoSát hỏi thêm: Khi chẳng sanh chẳng diệt thì sao? Ngài khuatay nói: Thôi đừng nói mê nữa. Rồi Ngài ngồi theo kiểusư tử tọa mà tịch... (Tam Tổ thực lục).

Quabagiai đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống giai đoạn nàora giai đoạn ấy. Lúc làm vua thì quên mình giữ nước, hếtdạ chăn dân. Khi đi tu, nhiệt tâm vì đạo mài miệt tu hành,chẳng ngại nhọc nhằn hết tình với tăng tục. Vì thế,trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạothì đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực,nên lãnh vực nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dụclạc trong hoàng cung, cũng cầm binh khiển tướng ngoài trậnmạc, nếu nói là tội lỗi thì cũng tràn trề. Song khi dứtkhoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá khứ, sống kham khổtu hành, nên lấy hiệu đầu-đà (khổ hạnh). Với ý chí cươngquyết đó, chỉ trong vòng mười năm, Ngài đã tiến đếnchỗ sanh tử tự tại. Ðây là tấm gương sáng rỡ để nhắcnhở chúng ta, không sợ mình trước mê lầm tội lỗi, chỉsợ xuất gia rồi mà thái độ vẫn mập mờ. Ngài là con ngườithấy được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọcbài kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Ðạo của Ngài thìrõ:

Cưtrần lạc đạo thả tùy duyên
Cơtắcxan hề khốn tắc miên
Giatrunghữu bảo hưu tầm mích
Ðốicảnhvô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Trongđời vui đạo hãy tùy duyên
Ðóiđếnthì ăn mệt nghỉ liền
Nhàmìnhbáu sẵn thôi tìm kiếm
Ðốicảnhkhông tâm, chớ hỏi thiền.
Sốngngay trong lòng trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui.Duyên cảnh đổi thay tùy thời linh động, như khi đói thìăn, khi mệt thì nghỉ, đừng cố chấp cứng nhắc mà tựkhổ đau. Phật đã sẵn nơi ta, khỏi phải nhọc nhằn sangđông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là "đốicảnh tâm không động", chính nơi đây là thiền rồi, cònthưa hỏi đâu nữa. Người học đạo nhận thấy Phật đãsẵn nơi tâm mình, song muốn Phật hiện thì tâm đừng chạytheo cảnh. Ðây là lối tu thật giản đơn, thật cụ thể,mà người đời khó tin khó nhận. Người ta chỉ tin Phậtở Tây phương, phải siêng năng lễ bái thì được phước,được Phật rước về cõi Phật. Bởi vậy Tổ Lâm Tế nói:"Người ngu cười ta, kẻ trí biết ta." Cười, vì thấy khôngtụng kinh lễ bái, chẳng biết tu cái gì? Biết, vì thấy lốitu tế nhị cụ thể thiết thực, không còn gì nghi ngờ. Mộtông vua, xuất gia chỉ có mười năm mà đạt đạo như vậy,thật đáng quí kính biết dường nào. Cho nên triều đìnhtôn xưng Ngài là Ðiều Ngự Giác Hoàng.

THÁITỬTẤT-ÐẠT-ÐA VÀ TRẦN NHÂN TÔNG

Tháitử là ông hoàng chưa từng đối đầu với mọi việc khókhăn ở đời, chỉ thấy cảnh già, bệnh, chết là phát tâmđi tu. Mục đích Ngài đi tu để tìm phương pháp phá vỡ cáiluật khắc nghiệt của kiếp con người mà muôn thuở đãchấp nhận. Ngài phải trả cái giá rất đắt là, mười mộtnăm nằm gió phơi sương lang thang trong rừng núi, ăn uốngsơ sài cho đến kiệt sức. Đến khi giác ngộ viên mãn phươngpháp giải thoát sanh tử tuyên bố thành Phật. Ðây là ngườikhai mở con đường đạo giác ngộ giải thoát. Tức là Ngàiđã phá vỡ luật khắc nghiệt (già bệnh chết) chi phối mìnhvà đem ra chỉ dạy mọi người. Việc làm của Ngài là muônthuở không hai.

VuaTrần Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phậtđã vạch sẵn. Bởi kế thừa nên công phu đơn giản và nhẹnhàng, chỉ cần đem đuốc mình mồi vào đuốc Phật là cháysáng. Do đó đi tu Ngài không khổ công tầm đạo, chỉ cầnứng dụng đạo đã sẵn vào việc tu hành là thành công. Tuyvậy cũng không phải là việc dễ dàng, mặc dù có công thứcchỉ rõ, muốn ứng dụng công thức ấy phải gan góc cùngmình, phải mạnh tay chặt đứt mọi xiềng vàng xích ngọc,phải hùng dũng nhảy vọt khỏi mấy lớp rào tình cảm bịtbùng.

HaiNgài đều chôn mình trong cung vàng điện ngọc, bị bao vâybởi đám cung nữ phi tần, bị phủ kín trong tiếng đàn ngọthát hay, bị siết chặt bởi mùi thơm vị quí. Song cả haiđều quả cảm thoát ra không chút đoái hoài luyến tiếc.Do đó hai Ngài làm được việc khó làm, để lại cho đờitấm gương phi phàm xuất chúng. Hai Ngài là hai mầm sen chônsâu trong vũng bùn ngũ dục, vươn lên khỏi nước nở tròntươi thắm và tỏa ra mùi hương tinh anh thanh khiết bủa khắpcả trần gian.

Quanhững hình ảnh trên, chúng ta có đủ kinh nghiệm trong việctiến tu, không còn e dè nghi ngại gì nữa. Bởi vì không cóvị nào đã là thánh rồi thành thánh, mà tất cả đều bịbao vây bởi phiền não dục trần. Cái đặc điểm của cácngài là nhạy cảm sớm thức tỉnh và anh dũng khi cần thoátnó. Ðiều đó chúng ta có thể học được, có ai thấy cảnhgià bệnh chết mà chẳng buồn, có ai không khí khái khi thốtra những lời thề bán mạng. Chỉ cần chúng ta triệt đểứng dụng cái nhạy cảm của mình để phát chí tu hành, khéoxoay chuyển cái khí khái của mình vào con đường quyết tửcầu đạo. Dám hạ quyết tâm trên đường hành đạo, chúngta sẽ thu gặt được kết quả chắc chắn không nghi. Chúngta là những mầm sen phơi mình trên bùn ngũ dục, thoát khỏinó để vươn lên có khó gì? Chúng ta đâu có cung vàng điệnngọc, đâu có cung phi mỹ nữ... mọi dục lạc tìm cầu rấtkhó, nếu thoát nó thì hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần mộtcái nhảy nhẹ đã ra khỏi rồi, thế mà chúng ta cứ chầnchừ không ưng nhảy. Ðây là yếu điểm muôn kiếp chịu trầmluân của chúng ta.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 818)
Rồi tôi đi sâu vào vườn trầm, đi mãi vào ...rừng trầm để mong tìm những cây trầm đại thụ, và tôi đã gặp bao cao Tăng tu hành tại đây, không chỉ các sư tại Âu Châu mà còn từ Hoa Kỳ, Úc, Canada ...nữa cơ. Các vị đã trao cho tôi bao trầm hương qua lời giảng của quí Sư dựa theo lời dạy của Đức Phật. Những thỏi trầm quí mang tên: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Phổ Môn, Chú Đại Bi, Thập Chú, Thần Chú..v.v..và.v.v.Ôi, nhiều lắm, rồi với thời gian, nếu thành tâm trân quí và nắm giữ những thỏi trầm, thì hương trầm của nó cũng ít nhiều tỏa hương thơm ngát đánh bạt những sú uế mà bụi đời đã phủ lên người chúng ta.
15/03/2023(Xem: 4057)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
23/09/2022(Xem: 2255)
Giáo lý Bốn thánh đế là giáo pháp quan trọng nhất của những người học và tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Cho dù chúng ta thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ hay truyền thống Đại Thừa cũng đều tu học từ nền tảng giáo pháp này. Trong Bốn thánh đế thì đạo thánh đế gồm 37 pháp và thường được gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong đó thì Bát chánh đạo là căn bản nhất vì “Bát chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu” (Trong Tạp A-hàm, Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo, số 785 và Trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch).
17/11/2021(Xem: 20357)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10663)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
03/09/2021(Xem: 5797)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
08/10/2020(Xem: 7991)
1- Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì làm, tới đâu thì tới. 2- Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. 3- Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn nhịn để vượt qua. 4- Ăn chay, thương người, thương vật, tụng kinh. 5- Việc ác chớ để phạm, điều lành phải nên làm. 6- Thương người cùng thương vật, niệm Phật và tham thiền. 7- Chánh niệm đứng đầu là 3 niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 8- "Hằng ngày ăn thịt chúng sanh mà mong giải thoát, điều đó không bao giờ có điều đó được". 9- Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 10- Thông minh hiểu biết nhiều, coi chừng không bằng ông già bà lão ăn chay niệm Phật.
01/03/2020(Xem: 11950)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7303)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
17/04/2019(Xem: 5100)
Những pháp thoại của Lama Yeshe là độc nhất vô nhị. Không ai thuyết giảng được như đức Lama. Tự nhiên lưu xuất trong tâm, trực tiếp ngay bây giờ; mỗi lời nói của ngài là một cẩm nang hướng dẫn để thực tập. Tiếng anh của đức Lama rất tốt. Khó có người sử dụng nhuần nhuyễn như ngài. Với tính sáng tạo cao, đức Lama đã biểu hiện chính mình không chỉ qua lời nói, mà còn thể hiện tự thân và trên khuôn mặt. Làm sao để chuyển tải hết sự truyền trao huyền diệu này trên trang giấy? Như đã đề cập ở chỗ khác, chúng tôi trình bày với yêu cầu này cách tốt nhất có thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567