Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XIII: Sự Thông Suốt

08/12/201016:59(Xem: 11241)
Chương XIII: Sự Thông Suốt

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG XIII
SỰ THÔNG SUỐT
(WISDOM)


Đến đây chúng ta đã làmquen với những kỹ thuật rèn luyện tâm trí của mình vì vậy nên chúng ta có thểgiữ cho tâm trí của mình tập trung hoàn toàn vào một đối tượng thiện định. Khảnăng này là một phương tiện cần thiết để nắm bắt được sự trống rỗng(emptiness)riêng biệt thông suốt. Mặc dù tôi đã đề cập đến "sự trống rỗng" trongsuốt cuốn sách này, bây giờ chúng ta hãy khảo sát sâu hơn về "sự trốngrỗng".

BẢN NGÃ (CÁI TÔI)
(THE SELF)

Tát cả chúng ta đều có ýthức rõ rệt về "bản ngã", cũng như một ý thức rõ rệt về "cáitôi". Chúng ta biết rằng chúng ta đang ám chỉ ai khi chúng ta nghĩ"Tôi sắp sửa đi làm", "Tôi đang đi về nhà" hoặc "Tôiđói bụng". Thậm chí loài vật cũng có ý thức về đồng loại của chúng, tuynhiên chúng không thể diễn đạt bằng lời nói như chúng ta. Khi chúng ta cố gắngtìm hiểu "cái tôi" là gì, chúng ta khó có thể xác định được.

Ở Aán Độ cổ đại, nhiềunhà triết học Hindu đã cho rằng "cái tôi" này tuỳ thuộc vào thể xácvà tâm hồn của từng người. Họ cho là ắt hẳn phải có một nhân tố nào đó tạo rasự liên tục giữa những giai đoạn khác nhau của "cái tôi" , ví dụ nhưlà "cái tôi" trong: "khi tôi còn trẻ" hoặc "khi tôi vềgià" và thậm chí là "cái tôi" trong kiếp trước và "cáitôi" trong kiếp sau. Vì tất cả những "cái tôi" này đều tồn tạingắn ngũi và không vĩnh viễn, người ta thấy là ắt hẳn phải có một "cáitôi" nào đó độc lập và vĩnh cửu sở hữu mọi giai đoạn của sự sống này. Đâylà nền tảng cho việc thừa nhận một "cái tôi" riêng biệt với tâm hồnvà thể xác, người ta gọi nó là "linh hồn" (atman).

Thật ra, tất cả chúngđều có những quan điểm về cái tôi giống như vậy, chúng ta xem nó như nòng cốtcủa đời sống chúng ta. Chúng ta không cảm nhận được nó như những bộ phận tay,chân, đầu và mình, đúng hơn là chúng ta xem nó như là chủ nhân của những bộphận này. Tôi tin vào "cái tôi" độc lập nằm tận nơi sâu thẳm tronglòng mình, nó sở hữu những bộ phận hợp thành chúng ta.

Có gì không ổn với đứctin này? Tại sao một cái tôi độc lập với thể xác và tâm hồn lại bị phản đối?Những nhà triết học Phật giáo cho rằng một "cái tôi" có thể được xemlà có mối quan hệ với tâm hồn và thể xác. Họ giải thích rằng nếu một "linhhồn" hay "cái tôi" tồn tại, thì hoặc là nó tách rời với những bộphận tạo ra nó hoặc là nó có những bộ phận riêng biệt của nó. Tuy nhiên , nếunó tách rời với tâm hồn và thể xác, thì sẽ không xác đáng, bởi vì như vậy cónghĩa là nó không có liên quan gì đến tâm hồn và thể xác. Và việc đề xướng ramột cái tôi không thể phân chia và vĩnh cửu tạo nên tâm hồn và thể xác là buồncười và lố bịch. Tại sao? Bởi vì một cái tôi không thể phân chia, trong khi đóbộ phận cơ thể thì rất nhiều. Cái tôi chỉ có một thì làm sao đóng nhiều vai tròtrong việc điều khiển cơ thể?

Vậy thì bản chất của"cái tôi" mà chúng ta quá quen thuộc này là gì? Một số nhà triết họcPhật giáo hướng đến sự kết hợp giữa những bộ phận thể xác và tâm hồn và xemtoàn bộ tập hợp đó là cái tôi. Những người khác lại cho rằng sự liên tục ý thứcchúng ta chính là "cái tôi". Cũng có những người tin rằng những nănglực tinh thần, nền tảng tâm hồn của tất cả mọi người, là "cái tôi".Tất cả những quan điểm trên đều là những cố gắng để dung hòa những đức tin củachúng ta về "cái tôi". Trong khi chúng ta nhận ra được rằng sự cốđịnh và vĩnh cửu là phi lý, chúng ta tự nhiên gán cho "cái tôi" nhữngbản chất mà mình thấy hợp lý.

CÁI TÔI VÀ NHỮNG ĐAU KHỔ
(SELF ANDAFFLICTIONS)

Nếu chúng ta suy xétnhững cảm xúc của chúng ta, những kinh nghiệm của chúng ta về lòng lưu luyến vàsự thù địch mạnh mẽ, thì chúng ta sẽ thấy rằng căn nguyên của những tình cảmđau khổ đó là xúc cảm mãnh liệt bám vào "cái tôi". "Cáitôi" như vậy chúng ta cho là độc lập và tự chủ. Khi đức tin của chúng tavề "cái tôi" mạnh mẽ thêm thì mong ước bảo vệ và thỏa mãn mó cũngtăng lên.

Tôi sẽ cho bạn một vídụ: khi bạn trông thấy một chiếc đồng hồ đẹp trong cửa hiệu tự nhiên bạn bị lôicuốn. Nếu người bán hàng đánh rơi chiếc đống hồ đó, bạn sẽ nghĩ "Ô trời!Chiếc đồng hồ bị rơi xuống đất rồi". Điều này gây tác động lên bạn khôngmạnh mẽ lắm. Tuy nhiên, nếu bạn mua chiếc đông hồ đó, và từ đó bạn xem nó là"chiếc đồng hồ của tôi", rồi thì , nếu bạn đánh rơi nó, thì bạn sẽ bịtác động rất mạnh mẽ, bạn sẽ cảm thấy như tim của mình nhảy ra ngoài vậy!! Cảmxúc mạnh mẽ này xuất phát từ đâu? Sự sở hữu xuất phát từ "cái tôi".YÙ thức về "cái tôi’’ càng mạnh thì ý thức về "cái của tôi" cũngcàng mạnh. Đây chính là lý do tại sao bạn nên giảm bớt đức tin về một cái tôiđộc lập và tự chủ . Môt khi bạn loại bỏ được ý thức về cái tôi như vậy, nhữngcảm xúc được bắt nguồn từ cái tôi đó cũng biến mất.

LÒNG VỊ THA CỦA NHỮNG NGƯỜI PHI THƯỜNG
(SELFLESSNESS OF ALLPHENOMENA)

Họ không phải là nhữngngười không có "cái tôi". Tất cả những người phi thường đều có"cái tôi". Nếu chúng ta phân tích hay tìm hiểu một bông hoa, bằngcách nhìn nơi những bộ phận của nó, chúng ta sẽ không tìm thấy gì. Điều này chothấy rằng bông hoa thật sự không sở hữu những tính chất bên trong. Một chiếc xeca, một cái bàn hay một cái ghế cũng vậy. Thậm chí là chúng ta có thể tách mùicủa chúng ra được một cách khoa học, rồi đó chúng ta có thể chỉ ra được mùi vàvị của chúng.

Tuy vậy, chúng ta khôngthể phủ nhận sự tồn tại của bông hoa và mùi thơm của nó. Vậy thì chúng ta tồntại như thế nào? Một số nhà triết học Phật giáo đã giải thích rằng cái bông hoamà bạn trông thấy chỉ là dáng vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Nó chỉ thật sự tồntại theo cách mà chúng ta cảm nhận nó thôi. Theo sự giải thích này, nếu có mộtbông hoa trên bàn, bông hoa mà tôi cảm nhận được bằng tâm hồn của tôi mới đúngthực chất là bông hoa đó, còn bông hoa mà bạn cảm nhận bằng mắt và trông thấy ởtrên bàn có thể chỉ là vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Mùi của bông hoa mà bạnngữi thấy có thể cũng đúng mùi mà bạn cảm nhận được. Bông hoa mà tôi cảm nhậncó thể khác với bông hoa mà bạn cảm nhận.

Sự quan sát bằng tâm hồnnày làm hạn chế tri giác của chúng ta về sự thật của vật thể, nó đóng một vaitrò quan trọng trong ý thức. Người ta nghĩ ra những sự việc khác nhau, bị kíchthích bởi những hiện tượng phi thường khác nhau và cuối cùng chẳng tìm thấyđược điều gì cả.

SỰ TRỐNG RỖNG VÀ CĂN NGUYÊN PHỤ THUỘC
(EMPTINESS AND DEPENDENTORIGINATION)

Vậy thì "sự trốngrỗng" là gì? Nó đơn giản là "chẳng tìm thấy được gì cả". Khichúng ta tìm kiếm bông hoa trong những bộ phận của nó, chúng ta đối mặt với"sự không hiện hữu" của bông hao mà chúng ta muôn tìm. "Sự khônghiện hữu" đó gọi là "sự trống rỗng" của bông hoa. Nhưng mà nếuvậy thì không có bông hoa sao? Dĩ nhiên là có. Tìm kiếm căn nguyên của bất kỳmột sự vật hiện tượng nào có nghĩa là đạt tới những cảm nhận tinh vi về"sự trống rỗng" của nó, cái sự "chẳng tìm thấy được gì cả".Tuy nhiên, bạn đừng nghĩ là "sự trống rỗng" của một bông hoa đơn giảnlà tình trạng "chẳng tìm thấy được gì cả" của nó mà chúng ta đối mặtkhi chúng ta tìm kiếm những bộ phận của nó. Đúng hơn, nó là bản chất phụ thuộcvào bông hoa hoặc những bộ phận của nó mà bạn đặt tên, chính những điều đó cắtnghĩa "sự trống rỗng" của nó. Điều này đuợc gọi là "căn nguyênphụ thuộc".

THIỀN ĐỊNH VỀ "SỰ TRỐNG RỖNG"
(MEDITATION ONEMPTINESS)

Thấu hiểu được "sựtrống rỗng" không phải là điều dễ dàng thực hiện được, những trường đạihọc Tôn Giáo ở Tây Tạng đã bỏ ra nhiều năm để sinh viên học tập và nghiên cứuvề nó. Những nhà sư học thuộc lòng những bài kinh Phật và những lời bình chúqua những bậc thầy người Tây Tạng và Aán Độ. Họ học tập nghiên cứu cùng vớinhững học giả thông thái và trải qua nhiều giờ trong một ngày để tranh luận vềvấn đề. Để gia tăng hiểu biết về "sự trống rỗng", chúng ta phải họctập, nghiên cứu và suy niệm về nó rất nhiều. Điều quan trọng là phải làm côngviệc đó cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn của một bậc thầy có đủ năng lực, một ngườithấu hiểu "sự trống rỗng" hoàn tòan.

Cùng với những vấn đềkhác được đề cập trong sách này, sự thông thái được trau dồi bằng những kỹthuật "thiền định phân giải" và kỹ thuật "thiền định cốđịnh" . Tuy nhiên, trong trường hợp này, nhằm nâng cao nhận thức hiểu biếtvề "sự trống rỗng", bạn không luân phiên 2 kỹ thuật này, mà thực rathì bạn kết hợp chúng. Bạn tập trung tâm trí mình vào việc phân tích "sựtrống rỗng" bằng phương pháp "tập trung vào một điểm duy nhất".Điều này được gọi là sự hợp nhất của duy trì điềm tĩnh và sự hiểu biết sâu sắcđặc biệt. Bằng cách liên tục thiền định theo cách này, sự hiểu biết của bạnbiến thành nhận thức thật sự về "sự trống rỗng". Ở điểm này, bạn đạttới "giai đoạn chuẩn bị".

Nhận thức của bạn chỉ làkhái quát, vì nhận thức của bạn về "sự trống rỗng’’ đã được xuất phát từnhững suy luận hợp lý. Tuy nhiên, điều này trang bị cho người thiền định để họcó thể đạt được những nhận thức đúng đắn về "sự trống rỗng".

Lúc này, người thiềnđịnh liên tục trau dồi và nâng cao nhận thức suy luận của mình về "sựtrống rỗng". Điều này dẫn đến việc đạt được "hướng nhìn nhận" .Bây giờ, người thiền định đó thấy được "sự trống rỗng" trực tiếp, rõràng như là họ gạch một đường thẳng lên tay của mình.

Bằng cách liên tục về"sự trống rỗng", người ta tiến tới "thiền định". Đến đây,không còn khía cạnh nào khác của cuộc hành trình tâm hồn cần thiết phải đượctrau dồi.

NHỮNG MỨC ĐỘ BỒ TÁT
(THE BODHISATTVALEVELS)

Một tín đồ Mahayana (một giáo phái của Phật giáo) bắt đầu quá trình trau dồi phát triển của họ quanhững giai đoạn dẫn tới Cõi Phật ở một mức độ phát sinh tấm lòng Bồ Tát. Là mộtngười luyện tập, chúng ta nên phát triển mọi phẩm chất khác nhau đã được trìnhbày trong cuốn sách này. Khi có được hiểu biết thật sự về luật nhân quả, chúngta phải loại bỏ những hành vi gây hại cho bản thân và cho mọi người. Chúng taphải nhận thức được rằng cuộc sống là một chuổi dài đau khổ. Chúng ta phải cókhát vọng vượt qua những đau khổ đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải có khát vọngtừ bi giúp làm nhẹ bớt những đau khổ tràn lan của mọi người, những đau khổ đógiăng bẫy làm cho mọi người sa chân vào vũng bùn lầy lội của vòng luẩn quẩn.Chúng ta phải có được lòng yêu thương - tử tế lòng mong ước đem đến cho mọingười niềm hạnh phúc vô bờ bến. Chúng ta phải cảm nhận được trách nhiệm củamình là phải đạt tới sự giác ngộ cuối cùng.

Ở mức độ giác ngộ này,người ta đạt tới "sự tích lũy". Cùng với những động cơ thúc đẩy củatrạng thái bồ tát, người ta liên kết được "đức trầm tĩnh" và nhữnghiểu biết đặc biệt của mình, bằng cách đó người ta có được những nhận thức về"sự trống rỗng" đã được mô tả bên trên. Đến lúc này người ta đạt được"sự chuẩn bị". Trong suốt "sự tích lũy" và "sự chuẩnbị", vị Bồ Tát băng qua một khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập,nhờ đó mà vị Bồ Tát tích lũy được vô số tài năng và đ?ng thời mở rộng, nâng caosự thông suốt của mình.

Khi nhận thức về"sự trống rỗng" của một người không còn ở mức độ suy luận nữa, ngườiđó đã đạt tới mức độ thứ nhất trong số 10 mức độ bồ tát dẫn đến Cõi Phật. Quaviệc suy niệm liên tục về "sự trống rỗng", người đó đã đạt tới mức độthứ hai dẫn đến Cõi Phật và đồng thời đạt được "sự thiền định". Theođà tiến triển, người đó vượt qua khoảng thời gian luyện tập vô tận thứ hai và đạtđược mức độ thứ ba, tích lũy vô số tài năng và sự thông suốt.

Liên tục duy trì ba mứcđộ bố tát này, người đó vượt qua khoảng thới gian tập luyện vô tận thứ ba vànhờ đó đạt được "sự nâng cao kiến thức".

Bây giờ, người đó đã làmột Đức Phật hoàn toàn giác ngộ.

Vậy thì phía trước vẫncòn nhiều khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập nữa. Chúng ta phải kiêntrì. Chúng ta phải tiến lên từng bước một, liên tục trau dồi luyện tập. Chúngta cũng phải giúp mọi người luyện tập đạt tới mức độ như chúng ta và ngăn mìnhkhông gây hại cho mọi người. Khi lòng ích kỹ của chúng ta giảm dần và lòng vịtha của chúng ta tăng lên, chúng ta trở nên hạnh phúc hơn, mọi người xung quanhcũng hạnh phúc hơn. Đây là một cách để chúng ta tích lũy được những tài năng vàđức hạnh cần thiết nhằm đạt tới cõi Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/06/2014(Xem: 14574)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
09/06/2014(Xem: 19623)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
08/06/2014(Xem: 6964)
Buổi sáng sớm đầu xuân, tôi theo Scott đi thăm chi hội Phật tử tại nhà tù tiểu bang (Prison Sangha). Từ xa lộ cao tốc hiện đại, lấy lối rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua cánh rừng thông cao dày, một nhà tù khổng lồ giữa cánh đồng mênh mông trống vắng sừng sững hiện ra.
08/06/2014(Xem: 20334)
Chữ Đạo, là tiếng Trung Hoa,dịch ra Việt ngữ là con đường.Con đường được có hai loại : Có hình tướng,không hình tướng. Có hình tướng (hữu vi tướng),là đường trên mặt đất như những con đường mòn trên núi, trong làng,đường quốc lộ từ tỉnh này qua tỉnh khác,gọi là đường cái quang. Đường để cho người đi,xe chạy trên đó và đường sắt( xe lửa ).Cũng có đường dưới mặt đất,gọi là địa đạo.Địa đạo có hai loại : đường xe lửa ngầm (Subway) và đường hầm.Những con đường sau đây ,cũng thuộc về hữu tướng;như:đường công danh, đường đời, đường khổ, đường sanh mạng, đường song song, đường chân trời, đường hàng không, đường cùng, đường xích đạo,v.v…Những con đường có tướng cũng có hai: Bằng phẳng và khúc khuỷu, ổ gà, ghồ ghề.
06/06/2014(Xem: 14431)
Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có: 1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. 2. Một đạo tràng lý tưởng. 3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc. 4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ). Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.
06/06/2014(Xem: 26327)
Thơ và Tạp Bút là tập sách mà chúng tôi kết hợp chia làm hai phần: Phần đầu là những bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác sau khi tập thơ Hướng Dương ra đời. Phần hai là những bài viết rời rạc qua những chủ đề khác nhau. Chúng tôi kết hợp lại tất cả những bài viết đó để in chung trong tập sách. Chúng tôi đặt danh đề chung cho quyển sách là “Một Cõi Đi Về”. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cõi đời có muôn vạn nẻo nhưng lối về nguồn chơn thì chỉ có một. Giống như trăm sông, ngàn suối tuôn chảy mỗi hướng có khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chảy chung về biển cả. Nói cách khác, đứng về mặt hiện tượng sự tướng thì vạn pháp có ra muôn ngàn sai khác, nhưng bản thể thì chỉ có một. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Vạn vật đồng nhứt thể hay vạn pháp quy nhứt”.
04/06/2014(Xem: 8597)
Hàm Nguyệt Sơn (Hamwolsan), Cốt Quật Tự (骨 窟 寺-Golgulsa Temple), tọa lạc tại số 304, ấp An Đông (An-dong-ri), Thị trấn Dương Bắc (Yangbuk-myeon), Thành phố Khánh Châu (Gyeonguju-si), tỉnh Khánh Thượng Bắc đạo (Gyeongsangbuk-do) thuộc khu đồi Khánh Bắc (Gyeongbuk), cách nội địa biển Đông ba dặm.
04/06/2014(Xem: 10088)
Các bạn chắc đã đọc rất nhiều lời khuyên của các vĩ nhân, có thể thấy chán. Nhưng tôi vẫn muốn viết về một người, là ông Einstein. Ông Einstein là một trường hợp rất đặc biệt.
02/06/2014(Xem: 11907)
Phật Giáo được thực hành tại nhiều nước Á Đông dưới nhiều hình thức, sự khác biệt là do bởi những tín đồ là con cháu của những người lập nghiệp ban đầu đến từ Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka, Ấn Độ, v.v...Cũng có nhiều người đơn giản tự gọi mình là "Phật tử" và thực hành một số nghi lễ mà họ học được từ cha ông dưới danh nghĩa của tôn giáo này.
02/06/2014(Xem: 10070)
Mùa xuân năm nay, tại Đạo tràng Mai Thôn đã diễn ra Đại giới đàn Cam Lộ Vị, bắt đầu từ ngày 23.05 đến ngày 28.5.2014. Lễ rước giới bổn được tổ chức thật long trọng tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng. Dường như đất trời cũng hòa chung niềm vui của tứ chúng Làng Mai trong ngày khai mạc Đại giới đàn. Ngay khi giới bổn được rước vào thiền đường Nước Tĩnh thì trời bổng nhiên đổ mưa. Những giọt nước cam lộ rơi xuống làm cho đất trời và lòng người đều mát mẻ, thanh lương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]