Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I.

11/03/201104:02(Xem: 9464)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: THỊ TRẤN SIMLA

I.

Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một triền núi, nhìn xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nhìn thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đất nước rộng lớn này.

Sáng hôm sau, hành động đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà Blavatsky về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hãy xem cuộc viếng thăm này như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây đừng nói gì đến Hội Thông thiên học, cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị Chính phủ theo dõi vì tình nghi là gián điệp của Nga. Nói tóm lại, hãy quên đi việc riêng của mình, mà tốt hơn hãy đạt kết quả bằng cách gây cảm tình trong các giới quen biết tại đây, những giới này sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lý mà chúng ta phải chịu.

Lẽ tất nhiên, bà Blavatsky hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà giậm chân, đi tới đi lui trong phòng và nói một mình cơ hồ như tôi là nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà.

Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng vì thấy rằng bà không chịu tự chủ mà đã bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng. Ông nói rằng người Anh luôn xem đức tính tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thật sự. Bà bạn trung kiên của chúng tôi, phu nhân Gordon, là vị khách đầu tiên tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của Chính phủ ông Sinnett cố tình mời đến nhà để gặp bà Blavatsky.

Trong tập nhật ký của tôi có chép rằng bà bắt đầu thực hiện những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được xem như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà Blavatsky, chẳng hạn như phát động tiếng gõ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí, v.v... Thậm chí, bà còn làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.

Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị Chính phủ ghét và theo dõi vì nghi ngờ là gián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi này là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lý đó để cho công việc của chúng tôi ở Ấn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi phải đợi cho đến khi chúng tôi đã đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lãnh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ý đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.

Khi nhận thấy đã đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ trong Chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bản sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. Vì tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề này, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:

“Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880

Kính gửi: Ông Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ.

Thưa ông Bộ Trưởng,

Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ Bảy vừa qua về Hội Thông thiên học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của chính ông, tôi xin trình bày lại vấn đề bằng văn thư.

1. Hội Thông thiên học được tổ chức tại New York năm 1875 bởi một số học giả khoa Đông phương học và Tâm linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lý và khoa học cổ của Á châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bản xứ.

2. Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ý định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.

3. Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội là bà H. P. Blavatsky (một công dân Nga đã nhập quốc tịch Mỹ[4]và là một học giả khoa Tâm linh học Á châu) và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đã đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. Vì lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là người Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trương tại Mỹ, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ. Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) do Ngoại trưởng Evarts cấp, với một chứng thư của Bộ Ngoại giao Mỹ giới thiệu tôi cho các vị đại sứ và lãnh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đã được lưu trữ tại Văn khố của Chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gửi đến Bộ Ngoại vụ Ấn Độ trong nay mai.

4. Những báo cáo sai lầm, do không hiểu biết rõ hay có ác ý, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ đã được đệ trình lên Chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dõi của nhân viên an ninh, nhưng công việc này đã được thi hành một cách vụng về đến nỗi làm cho cả nước đều chú ý, và người dân bản xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ. Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đãi hoàn toàn không có lý do chính đáng, do hậu quả hành động của Chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.

5. Bất cứ người nào đã từng có dịp biết rõ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đã tạo một ảnh hưởng lành mạnh và bảo thủ đối với dân bản xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gửi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy. Nếu Chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đã vô tình gây cho chúng tôi, và phục hồi trở lại thanh danh mà chúng tôi vẫn có trước khi cái nhãn hiệu “âm mưu chính trị” bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đã kể trên, thì chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà còn cho cả nền văn hóa và khoa học Đông phương.

Nhưng nếu lệnh theo dõi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, vì sự nghi ngờ đã âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của Chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một hình ảnh của tai họa. Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại vụ ra lệnh cho các cấp trực thuộc hãy thông báo cho từng địa phương biết rõ sự kiện này là chúng tôi không còn bị nghi ngờ, và xét vì công việc của chúng tôi làm là vì sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận. Và điều này, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lý và luật pháp công minh của Anh quốc.

Trân trọng kính thư,

Ký tên:

Đại tá Henry S. Olcott.

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

Sự trả lời của Chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa mãn. Tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lệnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dõi và dò xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.

Trong một bức thư thứ nhì, tôi đã lưu ý Bộ Ngoại vụ về vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đã đạt được như ý muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đã được tự do.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 3772)
Hôm nay là đêm 31-12-2008, chúng tôi chuẩn bị bước sang năm mới tại nhà Ngari Khangtsen. Mọi người tụ họp tại phòng ăn sau khi đã được về phòng của mình ngơi nghỉ lấy sức sau hai ngày đi đường bằng xe buýt. Có nhiều thức ăn đã được quý thầy nấu và dọn sẵn, một bên thức ăn chay và một bên thức ăn mặn. Thầy Kunchok Rabgye là bếp chánh. Thức ăn có súp, cari, cơm chiên, đồ xào, nhưng món nào cũng có nêm cà ri. Tôi có vào nhà bếp xem thì thấy nhà bếp rất đơn sơ. Khi nhận được xà bông rửa chén, quý thầy rất mừng vì xà bông cục nhỏ của Ấn không ra bọt, rất khó cho việc rửa chén bát.
11/03/2011(Xem: 14687)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
08/03/2011(Xem: 13866)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
01/03/2011(Xem: 12736)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
16/02/2011(Xem: 8495)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
16/02/2011(Xem: 9411)
Từ muôn trùng xa xôi diệu viễn, chúng tôi đã đến Ấn Độ bằng những tâm trạng vô cùng phức tạp. Những bước chân đàu dọ dẫm trên miền đất mới. Những ấn tượng sâu đậm chập chùng đã sống dậy trong tâm hồn chúng tôi. Là những đứa con của Phật, là những người đã chọn cho mình lối sống truyền thống của người thoát ly, dĩ nhiên chúng tôi luôn ao ước được đặt chân đến nơi đã từng là trụ xứ của người cha tinh thần của chúng tôi, của người cha hiền mà chúng tôi quen gọi là từ phụ.
23/01/2011(Xem: 9635)
Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, trong lúc chúng sanh đang lăn trôi trong biển đời sanh tử thì một ánh sáng kỳ diệu lóe lên nơi miền Bắc Ấn báo hiệu cho sự thị hiện kỳ diệu của một đấng Giác Ngộ. Đức Phật đã thị hiện chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Sau những năm tháng tu hành tầm cầu chơn lý, Đức Phật đã giác ngộ và giải thoát. Ngài đã mang hết những gì mình liễu ngộ ra mà trao truyền lại cho chúng ta, chỉ với một mục đích là những mong cho chúng sanh mọi loài đều có được cuộc sống an lạc và tự tại
07/01/2011(Xem: 4505)
Ngày nay, ngôi tháp Đại Giác đã một lần nữa sống lại với sự viếng thăm của hàng triệu khách hành hương chiêm bái trên toàn thế giới. Thanh thế của Thánh địa được lớn mạnh như thuở vàng son của Phật giáo. Con số các chùa chiền tự viện của những nước Phật giáo trên thế giới tăng lên rõ rệt tại Bồ-đề Đạo Tràng.
07/01/2011(Xem: 8259)
Ngày nay, Buddhagay là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến viếng thăm quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Buddhagay , một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hoá trong chốc lát. Giờ đây, Buddhgay đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Buddhagay có triển vọng sẽ là một trung tâm của Phật giáo thế giới. Thánh tích "Bồ-đề Đạo Tràng" (Buddhagay hay còn gọi là Bodhgay ) là địa danh chỉ cho nơi Đức Phật đạt được quả vị giác ngộ tối thượng (Sambodhi). Buddhagay cách thị trấn Gay cũ sáu dặm về phía Bắc, ngày nay cũng được biết với tên Brahmagay , nơi chiêm bái của tín đồ Ấn giáo (Hinduism). Có lẽ tín đồ Ấn giáo đã thêm thuật ngữ ‘Brahma’ vào địa danh của thánh tích này để phân biệt với Buddhagay , thánh tích của Phật giáo. Buddhagaya bây giờ là một thị trấn thịnh vượng, phía bắc giáp với Haripur, phía đông giáp với Mastipur, Dhondowa, Bhalua and Turi, phía nam giáp với Rampur và phía đông giáp với dòng sông Lilajan. Đây là một hình thức
07/01/2011(Xem: 3372)
Bodh Gaya được xem là đệ nhất thánh tích Phật giáo, đồng thời cũng là trung tâm Phật giáo lớn nhất ở Ấn Độ. Hằng năm tín đồ Phật giáo ở Ấn Độ và khắp thế giới lũ lượt hành hương về đây để chiêm ngưỡng cây bồ đề nơi Đức Phật ngồi thiền định, đông nhất là vào các ngày lễ truyền thống của Phật giáo. Nơi Đức Phật thành đạo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]