Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I.

11/03/201104:02(Xem: 10135)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG BỐN: BIỆT THỰ HOA HỒNG

I.

Kể từ ngày 29 tháng 3 năm 1879 đã lần lượt xảy ra một loạt những sự việc dị kỳ mà nhân chứng quan trọng là bạn Mulji Thackersey, không kể bà Blavatsky.

Ngày đó, bà Blavatsky bảo Mulji gọi một cỗ xe ngựa, và cùng với anh ta lên xe. Bà không trả lời khi anh ta hỏi bà đi đâu, mà chỉ bảo anh nói với người phu xe hãy rẽ về bên mặt, hay bên trái, hoặc đi thẳng, tuần tự theo chỉ dẫn của bà.

Những gì đã xảy ra, Mulji thuật lại cho chúng tôi nghe khi anh ta trở về nhà chiều hôm đó. Bà Blavatsky đã chỉ đường cho xe chạy xuyên qua rất nhiều ngõ ngách quanh co, cho đến khi ra đến ngoại ô thành phố Bombay cách đó độ tám đến mười dặm, vào một rừng thông rậm rạp, ở khu vực Parel. Mulji biết rõ vùng này vì anh ta đã hỏa táng xác chết của mẹ mình ở vùng lân cận.

Trong rừng thông có nhiều đường mòn xuyên nhau qua lại chằng chịt, nhưng bà Blavatsky không hề lạc đường, và chỉ bảo người đánh xe đi quanh đi quẹo một hồi lâu cho đến khi ra tới bờ biển. Sau cùng, Mulji vô cùng ngạc nhiên khi thấy xe đưa họ vào cổng một khuôn viên rộng lớn, với một vườn hoa hồng ở phía mặt, và một biệt thự nguy nga với những hành lang rộng rãi theo kiểu kiến trúc phương Đông.

Bà Blavatsky xuống xe, bảo Mulji hãy đợi bà ở đó, và không được vào nhà vì bất cứ vì lý do nếu muốn được an toàn tính mạng. Thế là anh ta ngồi đợi trên xe trong một trạng thái băn khoăn khó hiểu, vì cái dinh cơ này, dù là người đã sống cả đời ở Bombay mà anh chưa từng nghe nói đến bao giờ!

Anh ta gọi một trong những người làm vườn đang trồng hoa, nhưng người này không nói gì cả về tên họ, tung tích của chủ nhân, cũng không cho biết người đã ở đó từ bao giờ, hoặc ngôi nhà đã được xây cất từ lúc nào. Đó là một điều rất bất thường giữa những người Ấn Độ với nhau.

Bà Blavatsky đi thẳng đến ngôi nhà, được một người Ấn Độ hình dung cao lớn, mặc áo rộng trắng, với một phong cách sang cả tôn quý khác thường, ân cần tiếp đón bà từ ngoài cửa và hai người cùng đi vào nhà. Sau một lát, hai người lại bước ra cửa. Người lạ mặt bí mật kia chào từ giã, và trao cho bà một bó hoa hồng lớn mà một người làm vườn vừa đem mang vào.

Bà Blavatsky trở lại chỗ cũ, bước lên xe và bảo người đánh xe trở về nhà. Tất cả những gì mà Mulji được biết do bà Blavatsky nói lại có thể tóm tắt như sau: Người lạ mặt là một nhà huyền học mà bà có liên hệ trực tiếp và có việc phải thương lượng vào ngày đó. Còn bó hoa hồng thì người ấy gửi cho tôi và nhờ bà trao lại.

Phần lạ lùng nhất trong câu chuyện này là theo chỗ chúng tôi biết thì bà Blavatsky không thể biết gì về vùng ngoại ô này và con đường đưa đến đó. Dù sao, kể từ khi chúng tôi đến Bombay, vì bà không hề rời khỏi nhà một mình! Nhưng bà lại tỏ ra hoàn toàn quen thuộc đường sá lẫn cả vùng này. Ngôi biệt thự kia có thật hay không, chúng tôi không thể biết được, trừ phi tin theo lời tường thuật của Mulji. Anh ta rất ngạc nhiên về việc này đến nỗi đã thuật lại câu chuyện cho các bạn trong thành phố nghe. Việc ấy làm cho một người đã từng quen thuộc với vùng ngoại ô này bỏ ra một trăm ru-pi để đánh cuộc rằng không bao giờ có một biệt thự nào như thế ở gần bờ biển, và Mulji không thể hướng dẫn bất cứ người nào đến đó.

Khi bà Blavatsky nghe câu chuyện đó, bà cảnh cáo Mulji rằng chắc chắn y sẽ thua cuộc; còn Mulji tuyên bố chắc chắn rằng y có thể trở lại, bởi y thuộc từng tấc đất trên lộ trình đã đi qua, và chấp nhận cuộc thách đố.

Tôi bèn cho gọi một cỗ xe ngay lập tức, và ba chúng tôi cùng lên xe. Do một người Ấn làm thông ngôn, tôi bảo người phu xe hãy tuân theo chỉ thị của Mulji về lộ trình sẽ đi qua và thế là chúng tôi khởi hành.

Sau một cuộc hành trình kéo dài qua nhiều ngõ ngách quanh co, chúng tôi lại đến khu rừng thông như lần trước, là nơi tọa lạc của ngôi nhà bí mật kia. Những đường lộ trong khu rừng quanh co chằng chịt, tôi mới bảo Mulji hãy cẩn thận nhắm hướng thật kỹ kẻo đi lạc đường. Tuy nhiên, anh ta vẫn rất tự tin như bao giờ, mặc dù bà Blavatsky đã nói với anh những lời chế giễu về tình trạng mê hoặc của anh và việc anh chắc chắn sẽ thua cuộc mất một trăm ru-pi.

Cỗ xe chúng tôi vẫn tiếp tục giong ruổi độ hơn một tiếng đồng hồ, quanh bên nọ, quẹo bên kia, có khi ngừng lại để Mulji bước xuống xe và nhắm hướng. Sau cùng, và chỉ độ một hai phút sau khi y tuyên bố hoàn toàn chắc chắn rằng chúng tôi đang thẳng đến ngôi biệt thự trên bờ biển, thì ô kìa, lạ thay, một chuyến xe lửa chạy đến ầm ầm trên đường sắt gần bên, và điều đó cho Mulji thấy rằng y đã hướng dẫn chúng tôi theo một phương hướng ngược chiều với mục tiêu phải đi tới.

Chúng tôi đề nghị dành cho y nhiều thời giờ tùy nghi sử dụng để theo đuổi sự tìm kiếm ngôi nhà bí mật, nhưng y cảm thấy hoàn toàn lạc hướng và rối loạn tinh thần, rồi chịu thua và bỏ cuộc!

Thế là chúng tôi đành quay xe trở về nhà. Bà Blavatsky nói cho chúng tôi biết rằng Mulji đã có thể tìm thấy ngôi nhà bí mật nếu y không bị một bức màn ảo giác làm che lấp tầm mắt.

Ngôi biệt thự này, cũng như tất cả những nơi cư trú khác của các vị chân sư, luôn luôn được bảo vệ chống lại sự đột nhập của người đời bằng một vòng đai ảo giác bao phủ chung quanh và được gìn giữ, canh phòng cẩn mật bởi những vị thần linh. Ngôi nhà đặc biệt này được đặt dưới sự chăm sóc thường xuyên của một người tin cẩn, và được dùng làm nơi tạm trú, hội họp của các chân sư và đệ tử trong khi di chuyển, lưu động.

Bà nói rằng tất cả những thư viện cổ xưa chôn dưới lòng đất, và những kho tàng châu báu của cải còn chôn giấu kín cho đến khi nào nghiệp quả cho phép khai quật lên để sử dụng, đều được bảo vệ chống lại sự khám phá của kẻ thế nhân phàm tục. Có những bức màn ảo ảnh được tạo ra dưới hình thức những núi dựng như vách, mặt đất cứng rắn, hố sâu vực thẳm, hoặc những chướng ngại vật tương tự, để đánh lạc hướng những kẻ tìm tòi. Nhưng bức màn ảo giác đó sẽ tan biến khi một người nào đó có duyên phần thụ hưởng, và sẽ được dẫn dắt đến tận nơi vào lúc thời giờ đã điểm.

Dù sao, tôi chỉ kể lại chuyện này một cách vô tư, như tôi vẫn giữ thái độ đó trong mọi trường hợp mà tôi không chứng kiến tận mắt. Tôi chỉ nói như một người kể chuyện, và để cho độc giả tự nhận xét, dù họ tin hay không tin, việc ấy cũng không can dự gì đến tôi. Nhưng nếu tôi được yêu cầu cho biết ý kiến, thì tôi phải nói rằng theo ý tôi, câu chuyện ngôi nhà bí mật có thể là sự thật, bởi vì như đã nói trước đây, chúng tôi đã từng được nhiều vị chân sư đến viếng thăm tại nhà ở đường Girgaum trong thể xác của các ngài. Và một đêm trăng sáng, bạn Damodar và tôi cùng với bà Blavatsky đang đi trên đường đưa đến ngôi nhà ẩn giấu, thì thấy một vị tiến đến gần và hỏi thăm chúng tôi, chỉ cách nhau có một tầm tay. Những chi tiết của chuyện này không cần phải nêu ra đây vì tôi còn nhiều chuyện khác phải kể tiếp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 3797)
Hôm nay là đêm 31-12-2008, chúng tôi chuẩn bị bước sang năm mới tại nhà Ngari Khangtsen. Mọi người tụ họp tại phòng ăn sau khi đã được về phòng của mình ngơi nghỉ lấy sức sau hai ngày đi đường bằng xe buýt. Có nhiều thức ăn đã được quý thầy nấu và dọn sẵn, một bên thức ăn chay và một bên thức ăn mặn. Thầy Kunchok Rabgye là bếp chánh. Thức ăn có súp, cari, cơm chiên, đồ xào, nhưng món nào cũng có nêm cà ri. Tôi có vào nhà bếp xem thì thấy nhà bếp rất đơn sơ. Khi nhận được xà bông rửa chén, quý thầy rất mừng vì xà bông cục nhỏ của Ấn không ra bọt, rất khó cho việc rửa chén bát.
11/03/2011(Xem: 14815)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
08/03/2011(Xem: 13962)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
01/03/2011(Xem: 12870)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
16/02/2011(Xem: 8590)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
16/02/2011(Xem: 9785)
Từ muôn trùng xa xôi diệu viễn, chúng tôi đã đến Ấn Độ bằng những tâm trạng vô cùng phức tạp. Những bước chân đàu dọ dẫm trên miền đất mới. Những ấn tượng sâu đậm chập chùng đã sống dậy trong tâm hồn chúng tôi. Là những đứa con của Phật, là những người đã chọn cho mình lối sống truyền thống của người thoát ly, dĩ nhiên chúng tôi luôn ao ước được đặt chân đến nơi đã từng là trụ xứ của người cha tinh thần của chúng tôi, của người cha hiền mà chúng tôi quen gọi là từ phụ.
23/01/2011(Xem: 9682)
Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, trong lúc chúng sanh đang lăn trôi trong biển đời sanh tử thì một ánh sáng kỳ diệu lóe lên nơi miền Bắc Ấn báo hiệu cho sự thị hiện kỳ diệu của một đấng Giác Ngộ. Đức Phật đã thị hiện chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Sau những năm tháng tu hành tầm cầu chơn lý, Đức Phật đã giác ngộ và giải thoát. Ngài đã mang hết những gì mình liễu ngộ ra mà trao truyền lại cho chúng ta, chỉ với một mục đích là những mong cho chúng sanh mọi loài đều có được cuộc sống an lạc và tự tại
07/01/2011(Xem: 4549)
Ngày nay, ngôi tháp Đại Giác đã một lần nữa sống lại với sự viếng thăm của hàng triệu khách hành hương chiêm bái trên toàn thế giới. Thanh thế của Thánh địa được lớn mạnh như thuở vàng son của Phật giáo. Con số các chùa chiền tự viện của những nước Phật giáo trên thế giới tăng lên rõ rệt tại Bồ-đề Đạo Tràng.
07/01/2011(Xem: 8400)
Ngày nay, Buddhagay là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến viếng thăm quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Buddhagay , một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hoá trong chốc lát. Giờ đây, Buddhgay đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Buddhagay có triển vọng sẽ là một trung tâm của Phật giáo thế giới. Thánh tích "Bồ-đề Đạo Tràng" (Buddhagay hay còn gọi là Bodhgay ) là địa danh chỉ cho nơi Đức Phật đạt được quả vị giác ngộ tối thượng (Sambodhi). Buddhagay cách thị trấn Gay cũ sáu dặm về phía Bắc, ngày nay cũng được biết với tên Brahmagay , nơi chiêm bái của tín đồ Ấn giáo (Hinduism). Có lẽ tín đồ Ấn giáo đã thêm thuật ngữ ‘Brahma’ vào địa danh của thánh tích này để phân biệt với Buddhagay , thánh tích của Phật giáo. Buddhagaya bây giờ là một thị trấn thịnh vượng, phía bắc giáp với Haripur, phía đông giáp với Mastipur, Dhondowa, Bhalua and Turi, phía nam giáp với Rampur và phía đông giáp với dòng sông Lilajan. Đây là một hình thức
07/01/2011(Xem: 3398)
Bodh Gaya được xem là đệ nhất thánh tích Phật giáo, đồng thời cũng là trung tâm Phật giáo lớn nhất ở Ấn Độ. Hằng năm tín đồ Phật giáo ở Ấn Độ và khắp thế giới lũ lượt hành hương về đây để chiêm ngưỡng cây bồ đề nơi Đức Phật ngồi thiền định, đông nhất là vào các ngày lễ truyền thống của Phật giáo. Nơi Đức Phật thành đạo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]