Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.

11/03/201104:02(Xem: 9003)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG NĂM: VIẾNG ĐỘNG KARLI

II.

Khi các người bạn Ấn Độ đi mua sắm vật thực đã trở về, chúng tôi được ăn một bữa tối nóng sốt trong hang và sau đó ra ngắm cảnh đồi núi dưới ánh trăng. Đêm hôm đó, chúng tôi trải nệm trên sàn đá và ngủ ngon lành cho đến sáng. Baburao ngồi trước cổng hang và đốt lửa trại suốt đêm để ngăn ngừa sự đột nhập của loài thú dữ.

Trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ” có đoạn diễn tả tôi bị rơi xuống vực thẳm và được người tu sĩ Ấn Độ có con bò năm chân cứu thoát, nhưng đó chỉ là chuyện giả tưởng. Cũng thế, những “tiếng gầm thét của chúa sơn lâm từ xa vọng lại dưới chân đồi; một con cọp lớn rình chụp chúng tôi lúc nửa đêm và bị đẩy xuống vực sâu do một quyền năng bí mật che chở chúng tôi, v.v...” đều là do óc tưởng tượng của bà Blavatsky để làm cho câu chuyện phiêu lưu du ký này thêm phần ly kỳ hấp dẫn đối với độc giả bên Nga.

Sáng hôm sau, Mulji và tôi thức dậy trước bà Blavatsky, và sau khi chúng tôi đi tắm dưới suối, y xuống làng mua sắm thức ăn trong ngày, còn tôi đứng trên đồi ngắm cảnh vật chung quanh dưới ánh nắng ban mai. Sau một lúc, tôi lấy làm vui thích mà thấy người tu sĩ có con bò năm chân bước đến gần tôi và hiển nhiên là có ý muốn nói chuyện với tôi. Tôi còn do dự không biết phải làm sao, vì bà Blavatsky và tôi không ai biết nói thổ ngữ địa phương. Nhưng sự băn khoăn của tôi về vấn đề này đã được giải tỏa ngay, vì y liền đến gần bên cạnh tôi, nắm lấy bàn tay tôi, bày tỏ lòng thiện cảm đối với Hội Thông thiên học, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của một chân sư! Kế đó, y chào từ giã tôi một cách rất lịch sự, và lui bước. Chúng tôi không còn gặp y lần nào nữa.

Suốt ngày hôm đó, chúng tôi đi thám hiểm các hang động, và đến bốn giờ rưỡi chiều mới trở về lữ quán Khandalla.

Đang khi chúng tôi còn ở trong hang lớn, bà Blavatsky chuyển đạt cho tôi một huấn lệnh của chân sư mà bà nói là đã nhận được bằng thần giao cách cảm. Ngài dạy chúng tôi phải đi Rajputana, trong tỉnh Punjab.

Sau bữa ăn tối, chúng tôi ra ngồi ngoài sân cỏ ngắm trăng. Hai bạn tôi vừa đi rảo bước vừa nói chuyện với nhau và đi vòng ra phía sau quán trọ, nhưng bỗng Mulji hối hả trở lại, và trong cơn xúc động bàng hoàng nói rằng bà Blavatsky đã biến mất dạng ngay trước mắt anh ta trong khi anh đang đứng nói chuyện với bà dưới ánh trăng.

Anh ta vừa nói vừa run cầm cập, dường như sắp sửa muốn phát chứng động kinh. Tôi bảo anh ta ngồi xuống, hãy giữ bình tĩnh và đừng có phát điên lên, vì đó chỉ là một trò thôi miên che lấp thị giác của anh ta. Trò ấy vốn tuyệt đối vô hại, và bất cứ nhà thôi miên nào cũng có thể tác động như thế trên một đối tượng nhạy cảm.

Độ một lát, bà xuất hiện trở lại, ngồi lại chỗ cũ, và chúng tôi lại tiếp tục nói chuyện. Bỗng thấy có hai người Ấn Độ mặc sắc phục trắng đi qua sân cỏ cách chúng tôi độ năm mươi thước. Khi đến một chỗ đối diện với chúng tôi, họ ngừng lại và bà Blavatsky bảo Mulji hãy đến nói chuyện với họ. Trong khi Mulji đang tiếp đón họ, bà Blavatsky lặp lại cho tôi nghe những gì họ nói với nhau, và Mulji cũng đã tường thuật lại đúng y như vậy khi y trở lại một lúc sau đó.

Đó là một thông điệp nhắn cho tôi biết rằng bức thư của tôi gửi cho chân sư đã tới tay ngài và được ngài chấp thuận, và tôi sẽ nhận được thư trả lời khi tôi tới Rajputana.

Trước khi Mulji nói dứt lời, tôi thấy hai người sứ giả ấy quay gót ra đi độ một quãng ngắn, đến sau một bụi rậm nhỏ không đủ che khuất một người mặc áo rộng trắng, nhất là dưới ánh trăng sáng tỏ như ban ngày, rồi biến mất dạng. Chung quanh bụi rậm là đồng cỏ trống trơn, nhưng cả hai người đều biến mất không còn dấu vết. Lẽ tự nhiên, phản ứng đầu tiên của tôi là chạy ngang qua sân cỏ và tìm kiếm đằng sau bụi rậm xem có dấu hiệu gì chỉ rằng có một đường hầm trú ẩn nào chăng, nhưng tuyệt nhiên không thấy có gì khả nghi: mặt đất vẫn trơn láng, bằng phẳng, không có hang lỗ, hầm hố hay vết tích đào xới nào. Tôi chỉ bị thôi miên mà thôi!

Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa trở về Bombay, nhưng cuộc phiêu lưu của chúng tôi vẫn chưa chấm dứt. Baburao chào từ giã chúng tôi ở ga Khandalla sau khi đã từ chối không nhận tiền “trà nước” của tôi tặng, đó là một cử chỉ hy sinh hiếm có trong giới người thuộc giai cấp lao công Ấn Độ. Ba chúng tôi lên toa xe hạng nhì, còn Babula tìm được chỗ trong toa hạng ba. Sau một lát, Mulji ngả mình nằm trên băng “cút-xét” và ngủ luôn, còn bà Blavatsky và tôi ngồi nói chuyện.

Bà nói:

– Ước gì chân sư đừng bảo tôi nhắn miệng cho ông bức thông điệp về việc đi Rajputana!

– Tại sao?

– Bởi vì Wimbridge và cô Bates sẽ nghĩ rằng đó là chuyện bịa đặt để ông đưa tôi đi chơi một chuyến thích thú và để cho họ nằm không ở nhà một mình.

– Ồ! Không sao. Tôi chỉ tin nơi lời nói của bà là đủ.

– Nhưng họ sẽ nghĩ xấu về tôi vì chuyện đó.

– Nếu vậy, tốt hơn là ngài nên viết cho bà ít chữ. Điều này ngài có thể làm một cách dễ dàng. Nhưng bây giờ dù có hối tiếc cũng đã quá trễ. Chúng ta đã đi qua khỏi Khandalla độ mười lăm hay hai mươi dặm. Thôi, hãy bỏ qua việc ấy.

Bà ngẫm nghĩ trong vài phút rồi nói:

– Dù sao, để tôi thử xem, vẫn chưa phải là quá trễ.

Kế đó bà viết vài chữ trên một trang giấy trong cuốn sổ tay bỏ túi của bà bằng hai thứ chữ, nửa trang trên viết bằng chữ cổ tự Senzar, là ngôn ngữ đặc biệt bà dùng để giao dịch thư từ với các chân sư, còn nửa trang dưới viết bằng tiếng Anh để cho tôi đọc. Bức thông điệp ấy viết như sau:

“Yêu cầu Sư phụ Gulab Singh gửi điện tín cho Olcott những huấn lệnh do đạo nữ truyền cho ông ấy ở động đá ngày hôm qua. Đó sẽ là một thử thách cho những người khác cũng như cho chính ông.”

Bà xé rời trang giấy, xếp lại thành hình tam giác, dùng ngón tay vẽ nguệch ngoạc trên đó vài dấu hiệu dị kỳ (mà bà nói là có tác dụng khống chế các loại tinh linh). Bà cầm nó trên đầu các ngón tay của bàn tay trái, dường như sắp sửa ném ra ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, tôi giữ tay bà lại và nói:

– Bà muốn đây là một thử thách cho tôi chăng? Vậy bà hãy để tôi mở ra xem lại.

Bà bằng lòng, tôi nhìn lại bên trong tờ giấy, trả nó lại cho bà, và theo lời bà dặn, theo dõi tờ giấy khi bà quăng nó ra ngoài toa xe lửa. Tờ giấy bị gió cuốn hút đi, xoay vòng theo chiều gió và bay đến một cái cây trơ trọi gần bên đường sắt. Lúc ấy chúng tôi đang ở trên đỉnh của dãy núi Ghats, độ một ngàn mét chiều cao, chung quanh không có nhà cửa xóm làng chi cả, mà chỉ có vài thân cây trơ trọi lẻ tẻ bên cạnh đường xe lửa.

Trước khi để bà quăng tờ giấy ra ngoài cửa sổ, tôi đã đánh thức Mulji, nói cho y biết sự việc ấy, cùng với y xem giờ trên đồng hồ, và y cùng tôi đồng ký tên trên một chứng thư trong quyển sổ tay của tôi, mà hiện giờ tôi đang có ngay trước mặt, và nhờ đó tôi đã nhớ lại từng chi tiết của sự việc đã xảy ra. Bản chứng thư ấy có ghi những chi tiết về địa điểm và ngày tháng như sau:

“Ga Kurjit, ngày 8 tháng 4 năm 1879, lúc 12 giờ 24 phút” và có nhân chứng Mulji Thackersey ký tên.

Đến ga Kurjit, Mulji và tôi muốn xuống ga đi bách bộ một lát để cho giãn gân cốt, nhưng bà Blavatsky bảo chúng tôi đừng rời khỏi toa xe cho đến khi xe đến Bombay. Bà đã được lệnh và chúng tôi sẽ hiểu sự việc ấy vào đúng lúc. Thế là chúng tôi cũng ở lại trên toa xe với bà. Đoàn xe lửa đến nơi đúng giờ quy định, tôi liền đi ra phố có việc, và vắng mặt độ một giờ. Khi về đến nhà, cô Bates đón tôi trước cửa và đưa cho tôi một bức điện tín đựng trong phong bì có niêm khằng do nhân viên Sở Bưu điện đem đến, và cô đã ký nhận thay tôi.

Bức điện tín ấy ghi như sau:

“Thời điểm: 2 giờ chiều ngày 8 tháng 4 năm 1879. Từ ga Kurjit đến ga Byculla. Gulab Singh gửi Đại tá H. S. Olcott. Đã nhận được thư. Sẽ trả lời tại Rajputana. Hãy lên đường ngay lập tức.”

Như đã nói trên, tôi xem sự việc này như một trong những bằng chứng chân thật nhất và không thể lầm lẫn mà tôi đã từng có về những mối tương quan huyền diệu của bà Blavatsky với các đấng chân sư cao cả.

Khi chúng tôi đến Bhurtpore trong chuyến đi Rajputana sau đó, một đêm nọ bà Blavatsky và tôi đang ngồi ở ngoài hành lang của quán trọ thì thấy một người Ấn cao niên mặc áo rộng trắng bước đến gần, chào theo phong tục bản xứ, rồi đưa cho tôi một phong thư và lẳng lặng bước đi ngay. Tôi mở thư ra xem, thì ra đó là thư trả lời bức thông điệp của tôi gửi cho sư phụ Gulab Singh tại Khandalla, mà ngài đã báo trước cho tôi biết trong bức điện tín gửi từ Kurjit, rằng tôi sẽ nhận được khi tôi đến Rajputana.

Đó là một bức thư chứa đựng những lời khuyên ưu ái đầy thiện cảm, và quan trọng nhất đối với tôi, vì trong đó ngài dạy tôi rằng con đường tốt nhất và đảm bảo nhất để tìm chân sư là con đường hoạt động trung kiên vì mục đích phụng sự nhân loại xuyên qua Hội Thông thiên học.

Con đường đó, tôi vẫn theo đuổi tận tụy đến cùng, và bức thư của ngài là một ân huệ và nguồn an ủi thường xuyên đối với tôi trong những cơn khó khăn, gian lao nghịch cảnh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 3770)
Hôm nay là đêm 31-12-2008, chúng tôi chuẩn bị bước sang năm mới tại nhà Ngari Khangtsen. Mọi người tụ họp tại phòng ăn sau khi đã được về phòng của mình ngơi nghỉ lấy sức sau hai ngày đi đường bằng xe buýt. Có nhiều thức ăn đã được quý thầy nấu và dọn sẵn, một bên thức ăn chay và một bên thức ăn mặn. Thầy Kunchok Rabgye là bếp chánh. Thức ăn có súp, cari, cơm chiên, đồ xào, nhưng món nào cũng có nêm cà ri. Tôi có vào nhà bếp xem thì thấy nhà bếp rất đơn sơ. Khi nhận được xà bông rửa chén, quý thầy rất mừng vì xà bông cục nhỏ của Ấn không ra bọt, rất khó cho việc rửa chén bát.
11/03/2011(Xem: 14685)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
08/03/2011(Xem: 13866)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
01/03/2011(Xem: 12736)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
16/02/2011(Xem: 8494)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
16/02/2011(Xem: 9409)
Từ muôn trùng xa xôi diệu viễn, chúng tôi đã đến Ấn Độ bằng những tâm trạng vô cùng phức tạp. Những bước chân đàu dọ dẫm trên miền đất mới. Những ấn tượng sâu đậm chập chùng đã sống dậy trong tâm hồn chúng tôi. Là những đứa con của Phật, là những người đã chọn cho mình lối sống truyền thống của người thoát ly, dĩ nhiên chúng tôi luôn ao ước được đặt chân đến nơi đã từng là trụ xứ của người cha tinh thần của chúng tôi, của người cha hiền mà chúng tôi quen gọi là từ phụ.
23/01/2011(Xem: 9635)
Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, trong lúc chúng sanh đang lăn trôi trong biển đời sanh tử thì một ánh sáng kỳ diệu lóe lên nơi miền Bắc Ấn báo hiệu cho sự thị hiện kỳ diệu của một đấng Giác Ngộ. Đức Phật đã thị hiện chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Sau những năm tháng tu hành tầm cầu chơn lý, Đức Phật đã giác ngộ và giải thoát. Ngài đã mang hết những gì mình liễu ngộ ra mà trao truyền lại cho chúng ta, chỉ với một mục đích là những mong cho chúng sanh mọi loài đều có được cuộc sống an lạc và tự tại
07/01/2011(Xem: 4505)
Ngày nay, ngôi tháp Đại Giác đã một lần nữa sống lại với sự viếng thăm của hàng triệu khách hành hương chiêm bái trên toàn thế giới. Thanh thế của Thánh địa được lớn mạnh như thuở vàng son của Phật giáo. Con số các chùa chiền tự viện của những nước Phật giáo trên thế giới tăng lên rõ rệt tại Bồ-đề Đạo Tràng.
07/01/2011(Xem: 8256)
Ngày nay, Buddhagay là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến viếng thăm quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Buddhagay , một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hoá trong chốc lát. Giờ đây, Buddhgay đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Buddhagay có triển vọng sẽ là một trung tâm của Phật giáo thế giới. Thánh tích "Bồ-đề Đạo Tràng" (Buddhagay hay còn gọi là Bodhgay ) là địa danh chỉ cho nơi Đức Phật đạt được quả vị giác ngộ tối thượng (Sambodhi). Buddhagay cách thị trấn Gay cũ sáu dặm về phía Bắc, ngày nay cũng được biết với tên Brahmagay , nơi chiêm bái của tín đồ Ấn giáo (Hinduism). Có lẽ tín đồ Ấn giáo đã thêm thuật ngữ ‘Brahma’ vào địa danh của thánh tích này để phân biệt với Buddhagay , thánh tích của Phật giáo. Buddhagaya bây giờ là một thị trấn thịnh vượng, phía bắc giáp với Haripur, phía đông giáp với Mastipur, Dhondowa, Bhalua and Turi, phía nam giáp với Rampur và phía đông giáp với dòng sông Lilajan. Đây là một hình thức
07/01/2011(Xem: 3369)
Bodh Gaya được xem là đệ nhất thánh tích Phật giáo, đồng thời cũng là trung tâm Phật giáo lớn nhất ở Ấn Độ. Hằng năm tín đồ Phật giáo ở Ấn Độ và khắp thế giới lũ lượt hành hương về đây để chiêm ngưỡng cây bồ đề nơi Đức Phật ngồi thiền định, đông nhất là vào các ngày lễ truyền thống của Phật giáo. Nơi Đức Phật thành đạo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]