Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III.

11/03/201104:02(Xem: 10161)
III.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI: MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ

III.

Cộng thêm vào cái viễn ảnh đen tối đó, sau chuyến đi Tích Lan trở về, chúng tôi thấy những Hội viên đều im lìm mê ngủ và Chi hội Bombay hoàn toàn bất động. Hai tháng vắng mặt của chúng tôi dường như đã làm tê liệt mọi hứng thú đối với công việc Hội, và khi tờ nhật báo bản xứ nói trên bắt đầu khai pháo tấn công thì vòm trời của chúng tôi có vẻ rất u ám.

Tuy vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục với một ý chí kiên cường dũng mãnh, cố gắng cho tờ tạp chí ra đúng kỳ hạn mỗi tháng và trả lời thư từ bốn phương gửi đến chúng tôi với số lượng càng ngày càng nhiều. Đó là một trong những cơn khủng hoảng của Hội, mà trong tình trạng hầu như cô đơn, bà Blavatsky và tôi cùng sát cánh với nhau một cách chặt chẽ nhất để hỗ trợ tinh thần và khích lệ lẫn nhau. Tuy rằng những bạn bè thân tín nhất có thể phản bội và những cộng tác viên đắc lực nhất có thể bỏ cuộc nửa chừng, chúng tôi luôn nói với nhau những lời đầy lạc quan, cố ý làm cho nhau nghĩ rằng cơn nghịch cảnh hiện tại không có gì đáng kể, và sẽ trôi qua như một cụm mây thưa thớt của mùa hè.

Khi đó, chúng tôi biết, vì cả hai chúng tôi đều có bằng chứng cụ thể và thường xuyên, rằng các đấng cao cả mà chúng tôi phục vụ luôn bao bọc che chở chúng tôi với nguồn thần lực mạnh mẽ và ân huệ của các ngài; đó là một cái khiên vững chắc để bảo vệ chúng tôi khỏi mọi sự trắc trở nguy vong, và một điềm triệu báo trước sự thành công hoàn toàn trong sứ mạng.

Tuy nhiên, với thời gian qua chúng tôi không đến nỗi cô đơn. Một số bạn đạo người Ấn Độ thường xuyên đến trợ giúp chúng tôi, và dần dần chúng tôi phục hồi lại được cái tư thế đã mất của thuở ban đầu.

Trong số những người cộng tác đắc lực với chúng tôi có bạn Damodar Mavalankar, một thanh niên Ấn thuộc dòng Bà-la-môn mà tôi đã nhiều lần đề cập tới trước đây.

Tuy dáng người mảnh mai, ốm yếu, anh ta đã lao mình vào công việc của Hội với tất cả tâm hồn và biểu lộ một tấm lòng trung kiên sắt đá không gì lay chuyển. Hồi còn thơ ấu, anh đã từng vướng một chứng bệnh ngặt nghèo và bị sốt nặng sắp chết. Trong cơn mê sảng, anh nhìn thấy linh ảnh một bậc hiền giả đạo mạo bước đến gần, nắm tay anh và bảo anh chưa nên chết vội, mà phải sống để làm việc đạo trong tương lai.

Sau khi gặp bà Blavatsky, nhãn quang tâm linh của Damodar phát triển dần dần, và anh nhận ra đấng mà chúng tôi gọi là chân sư K. H. chính là nhà hiền giả đã xuất hiện trong cơn mê sảng của anh ta hồi còn bé, khi anh đang nằm hấp hối trên giường bệnh. Điều này đã làm cho anh càng quyết tâm trung thành với lý tưởng và mục đích của chúng tôi; và xem bà Blavatsky như người mẹ đỡ đầu.

Đối với tôi Damodar đặt một niềm tin tuyệt đối, lẫn cả tình thương và lòng kính trọng. Anh ta bênh vực tôi khi tôi vắng mặt, trước những sự vu khống công khai hay riêng tư, và đối xử với tôi như con đối với cha. Damodar đã hợp tác chặt chẽ và sát cánh với chúng tôi trong một tình thân hữu đậm đà nhất.

Anh ta làm việc với một lòng trung thành và vô kỷ tuyệt đối cho đến năm 1885, khi đó anh khởi hành từ Madras sang Tây Tạng, qua Darjiling, và vẫn còn ở đó dưới sự huấn luyện của chân sư để chuẩn bị cho anh ta làm công tác phụng sự nhân loại trong tương lai. Thỉnh thoảng, có tin đồn nhảm được loan truyền rằng anh ta đã chết trên lộ trình đầy tuyết phủ trong chuyến đi lên dãy Tuyết Sơn, nhưng tôi có lý do vững chắc để tin rằng anh vẫn còn sống mạnh khỏe và có ngày sẽ trở về. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở một đoạn sau.

Có lần Damodar nhận được bốn bức thư gửi đến từ bốn thành phố cách nhau rất xa và tất cả đều có đóng dấu sở Bưu điện. Tôi đưa tất cả cho Giáo sư Smith, yêu cầu ông hãy vui lòng xem xét cẩn thận mỗi bao thư xem có dấu hiệu gì chỉ ra rằng có ai đã bóc thư hay không, vì trong thư tín của chúng tôi thường thấy có những lời ghi chú của chân sư viết thêm vào những khoảng trống. Sau khi đã khám xét tỉ mỉ, giáo sư trả lại cho tôi và nói rằng tất cả các thư đều còn nguyên vẹn hoàn toàn, không có dấu vết gì khả nghi. Tôi liền yêu cầu bà Blavatsky hãy thử “nhìn” xem có thông điệp nào của chân sư trong đó không. Bà bèn cầm lấy các thư vẫn còn nguyên vẹn, để từng cái một lên trán, và nói rằng trong hai bức thư có chữ viết của chân sư. Kế đó bà đọc các thông điệp bằng khả năng linh thị, và tôi yêu cầu giáo sư Smith hãy tự tay ông mở các bao thư. Ông này săm soi xét kỹ các bao thư một lần nữa rồi lấy dao rọc mở các bao, và tất cả chúng tôi đều thấy rằng nội dung các thông điệp đều giống y như bà Blavatsky đã đọc.

Chính vào ngày chia ly giữa nhóm chúng tôi như đã kể trên, chúng tôi nhận được thư ông Sinnett mời chúng tôi lên chơi tại nhà nghỉ mát của ông ở Simla, thủ đô mùa hè của Chính phủ Ấn Độ, ở dưới chân dãy Tuyết Sơn.

Chúng tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa và dọc đường chúng tôi ghé lại vài thị trấn trên miền Bắc để viếng thăm các Chi hội đã thành lập trước đây. Kế đó, chúng tôi ngồi xe thồ leo đường dốc núi đến Kalka, nghỉ ngơi tại đó nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa để đi Simla.

Cảnh vật miền núi thật là hùng vĩ, ngoạn mục với những đỉnh núi cao trùng điệp nối tiếp nhau đến tận chân trời. Chúng tôi đến thị trấn Simla trước khi mặt trời lặn, những ngôi biệt thự phản chiếu ánh nắng vàng làm cho thành phố có vẻ rất hấp dẫn. Một người giúp việc của gia đình ông Sinnett đón tiếp chúng tôi khi vào thành phố với những chiếc kiệu nhỏ hai người khiêng ở hai đầu, và không bao lâu chúng tôi đã đến ngôi biệt thự của ông bà Sinnett. Tại đây, một cuộc tiếp đón nồng hậu đang chờ đợi chúng tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 3770)
Hôm nay là đêm 31-12-2008, chúng tôi chuẩn bị bước sang năm mới tại nhà Ngari Khangtsen. Mọi người tụ họp tại phòng ăn sau khi đã được về phòng của mình ngơi nghỉ lấy sức sau hai ngày đi đường bằng xe buýt. Có nhiều thức ăn đã được quý thầy nấu và dọn sẵn, một bên thức ăn chay và một bên thức ăn mặn. Thầy Kunchok Rabgye là bếp chánh. Thức ăn có súp, cari, cơm chiên, đồ xào, nhưng món nào cũng có nêm cà ri. Tôi có vào nhà bếp xem thì thấy nhà bếp rất đơn sơ. Khi nhận được xà bông rửa chén, quý thầy rất mừng vì xà bông cục nhỏ của Ấn không ra bọt, rất khó cho việc rửa chén bát.
11/03/2011(Xem: 14684)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
08/03/2011(Xem: 13866)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
01/03/2011(Xem: 12736)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
16/02/2011(Xem: 8493)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
16/02/2011(Xem: 9409)
Từ muôn trùng xa xôi diệu viễn, chúng tôi đã đến Ấn Độ bằng những tâm trạng vô cùng phức tạp. Những bước chân đàu dọ dẫm trên miền đất mới. Những ấn tượng sâu đậm chập chùng đã sống dậy trong tâm hồn chúng tôi. Là những đứa con của Phật, là những người đã chọn cho mình lối sống truyền thống của người thoát ly, dĩ nhiên chúng tôi luôn ao ước được đặt chân đến nơi đã từng là trụ xứ của người cha tinh thần của chúng tôi, của người cha hiền mà chúng tôi quen gọi là từ phụ.
23/01/2011(Xem: 9635)
Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, trong lúc chúng sanh đang lăn trôi trong biển đời sanh tử thì một ánh sáng kỳ diệu lóe lên nơi miền Bắc Ấn báo hiệu cho sự thị hiện kỳ diệu của một đấng Giác Ngộ. Đức Phật đã thị hiện chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Sau những năm tháng tu hành tầm cầu chơn lý, Đức Phật đã giác ngộ và giải thoát. Ngài đã mang hết những gì mình liễu ngộ ra mà trao truyền lại cho chúng ta, chỉ với một mục đích là những mong cho chúng sanh mọi loài đều có được cuộc sống an lạc và tự tại
07/01/2011(Xem: 4505)
Ngày nay, ngôi tháp Đại Giác đã một lần nữa sống lại với sự viếng thăm của hàng triệu khách hành hương chiêm bái trên toàn thế giới. Thanh thế của Thánh địa được lớn mạnh như thuở vàng son của Phật giáo. Con số các chùa chiền tự viện của những nước Phật giáo trên thế giới tăng lên rõ rệt tại Bồ-đề Đạo Tràng.
07/01/2011(Xem: 8252)
Ngày nay, Buddhagay là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến viếng thăm quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Buddhagay , một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hoá trong chốc lát. Giờ đây, Buddhgay đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Buddhagay có triển vọng sẽ là một trung tâm của Phật giáo thế giới. Thánh tích "Bồ-đề Đạo Tràng" (Buddhagay hay còn gọi là Bodhgay ) là địa danh chỉ cho nơi Đức Phật đạt được quả vị giác ngộ tối thượng (Sambodhi). Buddhagay cách thị trấn Gay cũ sáu dặm về phía Bắc, ngày nay cũng được biết với tên Brahmagay , nơi chiêm bái của tín đồ Ấn giáo (Hinduism). Có lẽ tín đồ Ấn giáo đã thêm thuật ngữ ‘Brahma’ vào địa danh của thánh tích này để phân biệt với Buddhagay , thánh tích của Phật giáo. Buddhagaya bây giờ là một thị trấn thịnh vượng, phía bắc giáp với Haripur, phía đông giáp với Mastipur, Dhondowa, Bhalua and Turi, phía nam giáp với Rampur và phía đông giáp với dòng sông Lilajan. Đây là một hình thức
07/01/2011(Xem: 3369)
Bodh Gaya được xem là đệ nhất thánh tích Phật giáo, đồng thời cũng là trung tâm Phật giáo lớn nhất ở Ấn Độ. Hằng năm tín đồ Phật giáo ở Ấn Độ và khắp thế giới lũ lượt hành hương về đây để chiêm ngưỡng cây bồ đề nơi Đức Phật ngồi thiền định, đông nhất là vào các ngày lễ truyền thống của Phật giáo. Nơi Đức Phật thành đạo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]