Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khoá Hư lục, Một Kiệt Tác Phẩm Của Nền Văn Hóa Dân Tộc Việt

01/04/201317:38(Xem: 4766)
Khoá Hư lục, Một Kiệt Tác Phẩm Của Nền Văn Hóa Dân Tộc Việt

KHÓA HƯ LỤC
Một Kiệt Tác Phẩm Của Nền Văn Hóa Dân Tộc Việt
THẾ KỶ XIII.

HT Thích Đức Nhuận

Riêng đối với đạo Phật và dòng sử Việt, công nghiệp của Vua Trần Thái Tông thật là to lớn. Ngoài việc in kinh, xây chùa, tô tượng, đúc chuông; về diện văn hóa, Vua đã viết khóa Hư Lục, một kiệt tác phẩm của nền văn học Phật giáo dân tộc, thế kỷ XIII. Sách gồm ba quyển Thượng, Trung, Hạ, viết theo thể văn biền ngẫu bằng Hán tự, một lối văn rất khó viết, ở người cầm bút phải có một trình độ học vấn uyên bác mới dám sử dụng tới. Về nội dung cuốn sách tác giả trình bày những tư tưởng triết lý đại thừa Phật giáo nhằm mục đích tự thức tỉnh và đồng thời có tính cách giáo dục quần chúng, nói lên niềm thao thức khổ đau cùng sự giác ngộ của một người có trách nhiệm với mình, với đời và với đồng bào, nhân loại.

Tác giả, sau bao năm đối diện với những dằn vặt khổ đau ray rứt của tự thân. Năm Vua lên hai mươi tuổi, Hoàng Hậu là Chiêu Thánh ( Lý Chiêu Hoàng) mới mười chín tuổi, chỉ vì muộn có con, Trần Thủ Ðộ bắt ép Vua phải bỏ Chiêu Thánh để lấy người chị dâu đã có mang ba tháng là Thuận Thiên, vợ của anh mình, tức Trần Liễu. Có lẽ Trần Thủ Ðộ muốn Vua có con ngay để sau này nối nghiệp nhà Trần. Hiển nhiên là Vua đã kịch liệt phản đối việc làm trái lễ giáo này của Trần Thủ Ðộ. Nhưng uy quyền của ông ta quá lớn. Vua đành nhẫn nhục đau khổ, chịu đựng. Người con trai hai mươi tuổi mới lớn lên, lòng mang nặng một nổi buồn u ẩn, Vua đã nhất quyết bỏ ngai vàng ra đi, tìm lên núi Yên Tử, và xin ở lại đó để tu học Phật pháp hầu tìm ra một lối thoát cho tâm tư uất nghẹn, khổ đau; mặt khác, đứng trước tình cảnh rối bời của đất nước lúc bấy giờ, tuy tâm tư Vua chưa nguôi nỗi đau buồn, do người chú họ Trần Thủ Ðộ gây ra, nhưng trên cương vị một người lãnh đạo quốc gia, Vua không thể nhất đán phủi tay, buông xuôi, bỏ mặc cho vận nước nổi trôi... Và nhất là van nài trước sự khẩn thiết của Trần Thủ Ðộ: “ Xin Bệ hạ nghĩ đến trăm họ. Lòng dân như hoa hướng dương, luôn hướng về nẻo mặt trời mọc, là Bệ hạ. Vậy xin Bệ hạ gấp hồi loan”. Vua cảm động, rươm rướm nước mắt rồi cùng các quan trở về kinh sư, gượng lên ngôi báu. Trong 33 năm trị vì Vua đã làm tròn sứ mệnh của một đấng quân vương, hết lòng lo sửa sang việc nước; bên trong, bình trị nội loạn; phía ngoài, dẹp yên xâm lăng. Nhờ vậy mà toàn dân được sống an vui hạnh phúc.

Với trí sáng như mặt trời và với lòng thì rộng như biển cả, Vua quả là một vị A la hán, một vị đại Bồ tát thị hiện ở Việt Nam để cứu nước Việt Nam. Nên sau khi đã hoàn thành sự nghiệp cứu nước, Vua nhường ngôi cho con là Trần Hoảng tức là Trần Thánh Tông. Chắc chắn sau đấy vua có nhiều thì giờ rảnh rỗi để dành hết tâm tư vào việc tu niệm, và viết sách truyền lại cho đời.

Tất cả nổi thao thức khổ đau đối với bản thân, đối với cuộc đời, và với lòng từ bi thương xót chúng sanh, vì u mê tạo nghiệp xấu ác, nên phải luân hồi chìm đắm trong ba cõi, sáu ngã. Do những ý nghĩa ấy, tác giả đã viết khóa Hư lục, trước hết là để tự thức tỉnh mình trên đường tu niệm và thực hành, nhằm thanh lọc sáu quan năng, mong đạt đến chỗ “ lục căn viên thông”, tức là chứng thánh quả, đồng thời khuyên mọi người hướng tâm lên đức Phật từ bi cao cả và hãy học hỏi giáo lý vô thượng của Ngài, và lấy đó làm chiếc bè đưa ta qua sông mê, tới bờ giác.

Trước hết ta tìm về hai chữ “ Khóa Hư”. Chữ Khóa( trong khóa Hư Lục), theo Hán tự, có nghĩa là bài học dạy về cách thức tu trì đúng chính Pháp. Chữ , nghĩa là rỗng lặng, tâm luôn luôn thức tỉnh, không chấp vào hình tướng, sự vật một cách giáo điều, cố định. Khóa tượng trưng tinh thần hữu vi, minh chánh, quả quyết. Hư, tượng trưng tinh thần vô vi, lồng trong một ý nghĩa: Vạn hữu chuyển biến, khổ, không, vô thường, vô ngã, hiểu được lẽ sanh hóa của vũ trụ vạn hữu, là đi vào cõi niết bàn, bất sanh bất diệt, là chứng đạo, đạt tới trạng thái chân lý tối cao: Phật đà.

Bây giờ chúng ta hãy đi vào nội dung tác phẩm quyển Thượng:

-Lời tựa.

-Tứ Sơn kệ, và những bài bình giải về cảnh sanh, già, ốm, chết.

-Phổ thuyết Sắc thân, tức nói về thân phận con người trước cuộc đời.

-Khuyến phát bồ đề tâm( khuyên mọi người phát lòng bồ đề).

Lời Tựa

“Xét đến ngọn nguồn thì tứ đại vốn không, ngũ uẩn( cũng) chẳng có. Do không khởi vọng, vọng thành sắc; sắc có vốn tự không. Bởi vọng theo không, không hiển vọng; vọng sanh các sắc. (Một khí) Ðã trái với lẽ không sanh không hóa, nên vạn hữu mới có hóa có sanh- nếu không sanh hóa thời không hóa, không sanh. Vì có hóa sanh nên có sanh, có hóa- hoặc sanh thánh, hiền khôn, dại, hoặc sanh lông, cánh, vảy, sừng đắm ở bến mê hoài, lênh đênh trong bể khổ mãi. Lờ mờ mù mịt, nào có biết chi; Luống cuống luồng cuồng, không sao tỉnh được. Thảy đều do phóng túng cái tâm đi, không một ai hay quay đầu trở lại. Mặc kệ(cho) đi lại sáu đường; lên xuống bốn núi. Bốn núi là gì? Tức là sanh, già, bệnh, chết vậy.

Hãy xin bàn rõ bốn núi, để cho sau này cùng noi”

Bài kệ bốn núi

Tứ sơn kiêu bích vạn thanh tùng

Liễu ngộ đô vô vạn vật không

Hỹ đắc lư nhi tam cước tại

Mạch kỵ đã sấn thượng cao phong

Rừng cây bốn núi xanh xanh biếc

Vạn vật nhìn chung chẳng thực nào

Vui tạm “ lừa con ba vó gác”

Gắng lên thẳng tới đỉnh non cao.

Bài kệ trên ngụ ý diễn tả bốn núi ví với bốn tướng ( Sanh, Già, Ốm, Chết) mà mọi sanh vật đều không tránh khỏi. Khi một sanh vật sanh ra đời có nghĩa là sanh vật đó đã thoát được một tướng sanh,( nói cách khác; Nếu không sanh, làm gì có già, ốm, và chết, ví như con lừa lúc nằm giấu kín một chân); nhưng còn ba tướng kia, tức già, ốm, chết, nó luôn luôn rình rập, định cướp đoạt sanh mệnh của mỗi loài... biết rằng; Mỗi loài hiện hữu trên cõi đời này là do nhân duyên sinh, nên ch1ng lu6n mang trong mình cái lẽ dời đổi, khổ đau, vô thường, vô ngã. Sự tu của con người ta vốn thường hay lười biếng, khác nào con lừa bản tính nó chậm chạp- muốn cho nó leo núi thì phải thúc dục nó đi mau. Cũng như người tu hành phải tử công phu lắm mới mong chứng được đạo quả....( Lược).

Tác giả sách khóa Hư Lục đã thống thiết nói cho ta rõ về bốn nỗi khổ; Sanh, Già, Ốm, Chết của một kiếp người. Thật vậy, không một đứa trẻ nào lúc mới ra chào đời mà không khóc. Khóc là sự báo hiệu một sự nhận chịu nỗi khổ đau ở đời, một khi con người đã mang lấy nghiệp vào thân. Con người từ khi sanh ra, lớn lên và sống trong một khoảng thời gian dài ngắn không nhất định; cuối cùng bao giờ cũng đi đến cái chết, dù( người ấy) là trai hay gái, da vàng, da trắng, da đen, thông minh hay ngu tối, đẹp, xấu, sang hèn, giàu, nghèo... tuy có khác nhau về hình thể nhưng trên danh nghĩa mọi con người đều gọi chung bằng một chữ “ Người”. Ðức Phật dạy:” Con người vốn có Phật tánh và có khả năng thành Phật”. Có điều Phật tánh ấy hiển lộ- khi con người nghĩ và làm điều thiện- hay bị mờ- khi con người nghĩ và làm việc ác- chỉ khác nhau giữa hai tuyến Mê và Ngộ. Con người, theo đạo Phật, thường được đề cao một cách toàn triệt, vì con người có năng lực trí tuệ bén nhạy hơn hẳn muôn loài vạn vật; mà các sanh vật khác chúng thường sống theo bản năng. Do đó, con người có thể tiến hóa để trở nên những nhà bác học, vĩ nhân, hiền triết, bậc thánh, và cũng rất dễ thụt lùi, sa ngã, đắm chìm trong ba ngã, sáu đường để nhận lấy cái nghiệp hoặc “thiện” hoặc” ác” do chính mỗi người đã tạo từ kiếp trước hay kiếp này và liên hệ ở kiếp mai sau. Nói cách khác, “ loài người có thể tiến hóa đi lên, nhưng cũng rất có nguy cơ bị đào thải, vì không có gì bảo đảm rằng loài người tất yếu tiến hóa tốt”.




---o0o---

Vi tính : Diệu Nga - Thùy Châu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10210)
Thiền sư Trí Quang làm việc được hơn một năm thì cuộc tàn sát tín đồ Phật giáo bằng xe tăng và súng đạn xảy ra trước đài phát thanh Huế. Nguyên do của cuộc tàn sát là lệnh cấm treo cờ Phật giáo của chính quyền trước ngày Phật Ðản năm ấy.
10/04/2013(Xem: 8990)
Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa thượng trụ trì Chùa Quán Âm Phú Nhuận ( Gia Định). Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo.
10/04/2013(Xem: 6098)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Dù trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung.
10/04/2013(Xem: 7733)
Trong bài diễn văn khai mạc lễ đặt đá xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Thiền sư Thích Thanh Từ, Viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Đà lạt, người có ảnh hưởng lớn nhất đến việc xây dựng các Thiền viện Trúc Lâm ở Việt Nam trong đó có Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên và là người mang tâm nguyện lớn lao làm sống lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm của dân tộc.......
10/04/2013(Xem: 3838)
Phần lớn số gạch này đều để trơn, không hoa văn, thường có màu đỏ hoặc đỏ tím sẫm, độ nung cao, khá cứng. Một số viên có trang trí hoa văn họa tiết hình hoa cúc được in nổi với cánh nhỏ, đều và uốn lượn mềm mại trong khung nổi hình tròn, ở góc cũng in nổi các cánh hoa cúc nhỏ; một số được trang trí họa tiết hoa sen cách điệu.
10/04/2013(Xem: 5870)
Như một dòng chảy liên tục trong dòng chảy lớn của lịch sử dân tộc, kể từ khi được các tăng sĩ Ấn Độ du nhập vào đất Việt từ thời Hùng Vương, Phật giáo đã hội nhập vào dòng sinh mệnh của đất nước và đóng góp những nỗ lực làm thăng hoa nếp sống chung của dân tộc. Trên đất nước lớn lên từ huyền thoại Tiên Rồng, Phật giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó đã trở thành một lối sống gắn liền với dòng sống của dân tộc.
10/04/2013(Xem: 5560)
Khởi nguyên Phật giáo Việt Nam không chỉ là vấn đề riêng của Phật giáo. Nó liên quan tới giai đoạn cổ sử của đất nước, một giai đoạn xây dựng nền tảng văn hóa cho dân tộc có nhiều huyền thoại hơn sự thật, nhiều giả thuyết hơn là chứng liệu lịch sử. Cho nên những sử liệu Phật giáo trong giai đoạn này tuy ít ỏi cũng góp phần quan trọng giúp soi rọi lại một thời quá khứ xa xưa mà chúng ta có thể hãnh diện, một di sản tiền nhân để lại trong đó Phật giáo góp phần quan trọng.
10/04/2013(Xem: 21072)
Cũng như triều đại nhà Ðinh (968-980) trước đó, triều đại Lê Ðại-Hành (980-1005) (1) là một triều đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước của nước ta, nhưng sự nghiệp ấy quá ngắn ngủi vì sự phá nát của vua Lê Long-Ðĩnh (1005-1009) (2), cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay. Phú cường và an cư lạc nghiệp là những nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc, và đó đã là động cơ thúc đẩy Lí Công-Uẩn (3) lên nắm chính quyền (1010-1028) để phục hưng quốc gia, bảo vệ tinh thần đạo đức của dân tộc.
10/04/2013(Xem: 4305)
Từ cuối năm 1995, sau khi đã thấy rõ 36 quân của Trò Khép-Mở KIANO Close-Open Game [một trò-chơi kết-tinh giữa Văn-hóa truyền-thống của Việt-Nam (mà hình ảnh mâm Bánh-Dầy và Đồng Bánh-Chưng lớn buộc bằng 4 lạt, từ thời Tổ Hùng-Vương truyền ngôi cho con-thứ Lang-Liêu, là chính) và luật đối-xứng quân-bình của thiên-nhiên (mọi sinh-vật đều có trục đối-xứng quân-bình tự-thân để dễ tồn-tại)] là 64 tượng-quẻ của Việt Dịch, tôi nhận ra những di-tích của Văn-Minh Việt-Nam (như Gậy-Thần 9 đốt, Thành Cổ-Loa, Chùa-Một-Cột...)
10/04/2013(Xem: 6012)
Pho tượng nổi tiếng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp chứa đựng nhiều "ẩn ngữ", triết lý sâu xa. Nó cho ta biết nhiều nét về quan điểm thẩm mỹ, nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Việt thời Hậu Lê, nửa sau thế kỷ 17.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]