Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Mila gặp gỡ một thiền giả

09/01/201106:18(Xem: 4471)
4. Mila gặp gỡ một thiền giả

4

Mila gặp gỡ một thiền giả


Một ngày ấm áp khi Jetsušn Repa vĩ đại đang tu hành ở Núi Khối Đỏ trên đồng bằng Gungthang, một thiền giả đi đến. Mila hỏi ông : “Thầy đến từ đâu ?”

Ông trả lời : “Tôi đến từ vùng UŠ sau khi nghe danh tiếng của một lama Jetsušn tên là Milarepa. Thánh giả Jetsušn ấy sống ở đâu ?”

Để trả lời Mila hát cho ông bài ca này :

Con đảnh lễ dưới chân Marpa, vị siêu việt của loài người,
Không cách ly mảy tóc với Vajradhara vĩ đại.
Xin hãy hướng dẫn con, tâm ngài không mảy may chệch hướng,
Khỏi trạng thái của thực tại bất biến.

Ông, nhà khổ hạnh xứ UŠ, đến từ vùng đất thấp,
Tìm kiếm thiền giả Mila để xin những lời chỉ dạy.
Vậy thì, hãy thấu hiểu sự giải thích này !

Trong ba tháng xuân khi chúa của hơi ấm xuất hiện
Và những nguyên tố của nóng và lạnh cạnh tranh nhau,
Tiếng “ù ù” vang dội trong bầu trời
Được gọi là Con Rồng Xanh.

Dầu cho tên gọi và danh tiếng là vĩ đại,
Nhưng khi gặp hình thể thực của nó
Nó có một miệng rộng, cổ nhỏ, đuôi dài.

Dầu cho tên gọi và hình thể không khớp nhau,
Tiếng của nó được xem là điềm rất tốt lành.
Thế nên nó được gọi là con rồng vĩ đại của bầu trời,
Kẻ chia mùa hạ và mùa đông,
Viên ngọc trai của mùa mưa đúng thời.
Hãy hiểu đây là một điều kinh ngạc lớn !

Dưới những dòng nước của đại dương ngoài kia
Trên cái bục bằng vàng của đại dương,
Vị chủ tể của biển cả ngồi đó
Được gọi là Con Rùa Vàng Vĩ Đại.

Dầu cho tên gọi và danh tiếng là lớn lao,
Nhưng khi gặp hình thể thực của nó
Nó giống như một cái bình đất sét lật úp
Với miệng thì rộng còn chân ngắn ngủn.

Dầu cho tên gọi và hình thể không khớp nhau,
Nó được gọi là Rùa Vàng Vĩ Đại.
Nó là sự trang sức vĩ đại cho những đại dương,
Là thuốc để thuần hóa những hồn linh thiên nhiên,
Vũ khí bảo vệ những vùng thảm họa,
Và là kẻ chinh phục những con rắn độc.
Hãy hiểu đây là một điều kinh ngạc lớn !

Ở Tây Tạng này, những con quỷ mặt đỏ,
Yaksha (dạ xoa), và vô số hồn ma
Luôn luôn tìm cơ hội làm hại.
Còn chính tôi, người nổi tiếng như là Milarepa ;
Và dầu cho tên gọi và danh tiếng là lớn lao,
Nhưng khi gặp hình thể thực của tôi,
Tôi trần truồng, thân xanh như lá.

Dầu cho tên gọi và hình thể không khớp nhau,
Tôi có khả năng thực hành pháp khổ hạnh ;
Như thế tôi là vương miện của những người cầu Pháp,
Một thiền giả giữ gìn những giáo lý
Với sức mạnh chiến thắng những quỷ ma.
Hãy hiểu đây là một kinh ngạc lớn !

Ba cái này – bài ca, ví dụ và ý nghĩa,
Là cách giải thích của Mila
Nhưng thật ra Milarepa này
Chỉ là tên gọi, biểu tượng và chỉ định –
Trống rỗng như vỏ trấu, không có chất thể,
Vô tự tánh – như thế tôi không hề chỉ dạy.

Đây là quà tặng cho ông, hỡi thiền giả.
Bạn có nắm được ý nghĩa không, hỡi nhà khổ hạnh ?

Tràn đầy thán phục, thiền giả lễ lạy, đi nhiễu vòng quanh Mila và rồi quỳ gối chắp tay : “Lúc ban đầu tôi đã không biết chính là ngài. Tha thứ cho tôi. Tôi kinh ngạc khi thấy ngài có thể ở trong một chỗ ẩn cư hoang vắng mà không sợ hãi, lo âu.”

Jetsušn trả lời : “Nếu một thiền giả sợ phải ở nơi ẩn cư núi non, người ấy không nếm được thậm chí mùi hương của thiền định. Ông phải nhận biết mục đích, nó là trạng thái bổn nhiên, qua học tập và tư duy. Rồi sau khi nhận những giáo huấn sâu xa từ một vị lama chân chính và cắt đứt những tạo tác tâm thức, thấu rõ mục tiêu của thiền định nhất tâm. Một người như vậy mới được gọi là “thiền giả”. Những người lang thang khắp miền mà không có bằng chứng của kinh nghiệm và chứng ngộ, khất thực thức ăn và làm điều gì họ thích là những người bị tà ma nhiếp phục. Bởi thế, hãy nghe và suy xét kỹ bài ca này của tôi.”

Pháp vương của lòng tốt không lay chuyển,
Dịch giả mà tên tuổi hiếm được nghe đến –
Hỡi dịch giả vĩ đại Marpa
Con cầu nguyện – xin ban cho con ân phước !

Khi Đại Ấn vĩ đại đã biểu lộ,
Một thiền giả không sợ ngay cả tiêu tan cái thân như huyễn này.
Vừa lúc thấu rõ rằng những kinh nghiệm bên trong và bên ngoài đều như huyễn,
Một thiền giả không sợ ngay cả những đạo quân của bốn loại Ma.

Khi đã chấm dứt sự bám luyến vào cuộc đời,
Một thiền giả không sợ ngay cả sự hoại diệt toàn bộ của ba cõi.
Khi có thể điều phục những năng lực trong thân
Một thiền giả không sợ phải lang thang trong sương mù của ba cõi.

Thiền giả tràn đầy xúc cảm và thốt lên : “Lama Jetsušn quý báu, ngài có danh tiếng lớn, và điều đó thật như vậy. Kỳ diệu thay ! Kỳ diệu thay ! Bây giờ xin ngài giải thích như thế nào thế giới hình tướng này xuất hiện.”

Mila bèn hát bài ca này :

Con đảnh lễ dưới chân của lama chân thật
Người đã chỉ cho con rằng mọi tướng đều như huyễn.

Ông có biết những hình tướng này là gì ư ?
Nếu không biết, tôi sẽ nói cho ông :
Những hình tướng này xuất hiện khắp nơi ;
Với người không chứng ngộ thì chúng là sanh tử,
Nhưng với người chứng ngộ, chúng chiếu diệu như là Pháp thân.
Khi những hình tướng chiếu diệu như là Pháp thân
Chớ tìm kiếm một tri kiến nào khác từ những nguồn nào khác.

Ông có biết làm sao để trưởng dưỡng cái tâm ư ?
Nếu không biết, tôi sẽ nói cho ông :
Chớ tìm cách chỉnh trị, thao tác gì với tâm ;
Chớ cố gắng khiên cưỡng kiểm soát tâm.
Hãy an nhiên buông xả như một trẻ nhỏ.
Hãy như đại dương không sóng.
Như một ngọn đèn tự chiếu sáng,
Và như một xác chết không đời sống.
Hãy bỏ những đặt tên, cường điệu ra khỏi tâm vốn là thanh tịnh.

Ông có biết làm thế nào để kinh nghiệm ư ?
Nếu không biết, tôi sẽ nói cho ông :
Như sương tan mất bởi sức mạnh của mặt trời
Và bị xua tan không bằng cách nào khác,
Định kiến, ý niệm được tan sạch bởi sức mạnh của chứng ngộ.
Không bằng cách nào khác để trừ sạch ý niệm.
Hãy kinh nghiệm chúng như là giấc mơ không căn cứ.
Hãy kinh nghiệm chúng như là bọt nước phù du.

Hãy kinh nghiệm chúng như là cầu vồng không chất thể.
Hãy kinh nghiệm chúng như là hư không không thể phân chia.

Ông có biết làm thế nào để bổ sung kinh nghiệm ư ?
Nếu không biết, tôi sẽ nói cho ông :
Ngay cả một cơn gió mạnh bản chất cũng trống rỗng.
Ngay cả một làn sóng lớn cũng chính là đại dương
Ngay cả những đám mây dày phương nam cũng không có chất thể như bầu trời.

Ngay cả tâm ồn náo cũng vốn tự nhiên là vô sanh
Để làm tâm vận hành
Hãy dùng những giáo huấn để thức cỡi trên khí.
Khi thất niệm vì kẻ trộm là ý niệm,
Hãy dùng những giáo huấn để nhận ra kẻ trộm.
Khi tâm bị phân tán theo các đối tượng
Hãy xử dụng giáo huấn về cách bay của con quạ từ một một chiếc tàu.(14)

Ông có biết làm sao để thực hành ư ?
Nếu không biết, tôi sẽ nói cho ông :
Hãy thực hành như một con sư tử lớn đứng.
Hãy thực hành như một hoa sen mọc lên trong bùn.
Hãy thực hành như một con voi mê đắm.
Hãy thực hành như một hòn pha lê trong suốt.

Ông có biết làm thế nào để hiển lộ những kết quả ư ?
Nếu không biết, tôi sẽ nói cho ông :
Pháp thân được hiển lộ trong vô niệm.
Báo thân được hiển lộ trong lạc.
Hóa thân được hiển lộ trong sự sáng tỏ.

Tự tánh thân được hiển lộ trong tánh Không bổn nhiên.
Với những ai giỏi về ngôn ngữ thì có ba thân,
Nhưng trong Pháp thân thì không có sự chia biệt nào.

Cái thấy, trưởng dưỡng, kinh nghiệm,
Bổ sung, thực hành và những kết quả –
Sáu cái này bao gồm sự chứng nghiệm trong thiền.
Ông có nắm nghĩa lý của tôi không, hỡi con người xứ UŠ ?
Ông có hiểu tôi không, hỡi nhà khổ hạnh ?

Thiền giả một lần nữa tràn đầy cảm kích, và sau khi xin ban nhập môn và sự chỉ dạy sâu nhiệm bèn bắt đầu việc thực hành. Người ta nói ông trở thành một người thiền định lão luyện nhờ sự chứng ngộ tối hậu mọc sáng trong tâm thức ông.

Một bài ca về thiền khác của Milarepa, lần này là cho đệ tử thân cận là Rechungpa. Đây là một kiểu mẫu tiêu biểu về cách thức Mila tạo thành những chỉ dạy về thiền cho các đệ tử riêng. Sự bộc phát tự nhiên này chỉ để đáp ứng yêu cầu của Rechungpa đang chấp tay, phản ánh những hoàn cảnh thư thái trong sự độc nhất và quy mô của thể loại này. Dùng kiểu cách ẩn dụ như ngài thích, Mila lấy những vật trực tiếp chung quanh và dệt chúng vào một tấm vải biểu tượng phong phú để xiển dương những điểm chính yếu của giáo lý ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10169)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8762)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4393)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4619)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5515)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4779)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9846)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 4922)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 22770)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18598)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]