Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Đối mặt với một thầy tu đạo Bošn

09/01/201106:27(Xem: 4767)
16. Đối mặt với một thầy tu đạo Bošn

16

Đối mặt với một thầy tu đạo Bošn


Một lần nọ, con người vĩ đại Jetsušn Milarepa đi đến núi tuyết Ti Se với năm đệ tử để thiền định. Một đệ tử bị bệnh và không thể tiếp tục, họ thiền định mùa hè trên một trái núi hoang vu trong miền Lowo Thượng.(33) Vài người thấy họ và tò mò : “Người nào mà có thể sống thời gian lâu trên ngọn núi trơ trọi ấy ?” Biết đó là thiền giả Milarepa, họ đến đảnh lễ và cầu pháp. Mila hát cho họ :

Lowo là xứ tối tăm của ma quỷ.
Những thành phố là nhà giam của ma quỷ.
Kính trọng và địa vị là sợi thừng cột trói của ma quỷ.
Tiêu khiển là sự che ám của ma quỷ.

Ở đây, trong núi non vắng vẻ không người,
Tỉnh giác là thiền định nở hoa.
Ở đây sự chú tâm trưởng thành lớn mạnh.
Các bạn nhóm họp ở đây, hãy nghỉ ngơi đi –
Tôi cầu xin cho sự may mắn và sung túc tâm linh của các bạn.

Nói rồi, ngài bắt đầu ra đi. Họ kêu gọi ngài, nhưng ngài không nghe. “Mùa thu hoạch tới rồi. Tất cả các bạn có việc phải làm. Tôi sắp đi tìm lương thực cho mùa đông.” Khi ngài lên đường những thí chủ nam nữ và con cái họ theo ngài đến đỉnh đèo Kora. Họ lễ lạy, đi nhiễu quanh ngài và nồng nhiệt xin ngài ở lại. Cuối cùng họ nói, “Chúng tôi không thể gặp lại ngài, Jetsušn vĩ đại. Xin ban cho chúng tôi sự che chở bây giờ, trong trung ấm và trong những đời sau.”

Những sự kiện này và những bài ca của Mila được ghi lại trong Một Trăm Ngài Bài Ca.(34)

Những đệ tử cũng đi với ngài đến đèo Kora rồi trở lại Lowo để khất thực. Trong khi đó, Jetsušn tiếp tực đến Ti Se với Seben Repa. Trên cao nguyên trung tâm Drosho có nhiều người chăn gia súc tụ hội ở đó và Mila và Seben đến khất thực. Trước một lều lớn có một người có vẻ là thầy tu Bošn đang nhận đồ cúng dường của những người chăn. Họ đến gần và ngồi xuống. Những đồ thừa từ những cúng dường cho vị thầy tu Bošn được gom lại để cho họ.

Mila và Seben ngồi yên suốt buổi phục vụ cho vị thầy tu Bošn, nhưng khi ông sắp nói lời hồi hướng kết thúc, họ đứng dậy bỏ đi. Người tu sĩ hỏi họ, có vẻ giận dữ, “Tại sao các ông không nghe lời hồi hướng của tôi ?”

“Sự hồi hướng của tôi thì khác với của các bạn. Chúng ta sẽ nói riêng phần mình.”

“Tốt lắm, hãy nói cái của các bạn đi.”

“Ông không cần thiết phải nghe sự hồi hướng của tôi.”

“Nào, tốt lắm, ông không cần phải lưu tâm đến một sự hồi hướng nhân danh cái đuôi và ngực của con trâu yak dành cho tôi.”

“Tôi cũng có quyền nói một lời hồi hướng vì miếng da còn lại này từ những cúng dường cho ông đấy.”

Tu sĩ giận dữ, “Tôi không thán phục sự hồi hướng của bạn, nhưng bạn có thể cầu nguyện vì miếng da thừa của bạn – tôi sẵn sàng nghe bạn nói.”

Thế rồi Mila hát :

Lama từ ái muôn đời
Bổn tôn ban cho những thành tựu,
Tam Bảo đáng tôn kính của mọi người,
Vô số hộ pháp nhiều như biển của giáo lý –
Xin luôn luôn giữ gìn con trong tâm.

Do công đức
Của sự cúng dường thức ăn dư
Cho những thiền giả đi khất thực,
Nguyện cho tất cả chúng sanh, mà đầu hết
Là những thí chủ và con cái các bạn,
Có được hạnh phúc tốt nhất trong đời này.

Nguyện các bạn không có khổ đau vào lúc chết
Có được một thân người hay trời rỗi rảnh và cơ hội may mắn
Trong mọi hoàn cảnh của tái sanh
Và sau khi hưởng thụ cái tốt nhất của mọi cuộc đời
Cuối cùng đạt được toàn giác.

Nguyện tất cả những thiền giả khất thực,
Vô số hồn linh v.v...
Thỏa mãn với sự cúng dường đồ thừa này
Đạt đến cảnh giới thanh tịnh của thực tại.

Trong thực tế, sự cúng dường, hồi hướng và những người cho,
Người yêu cầu hồi hướng, người hồi hướng v.v...
Đều như một giấc mộng, ảo huyễn và tiếng vang,
Như ảo ảnh và những hoa đốm trong không trung.

Vị lama đạo Bošn bấy giờ nói, “Đây là một thí dụ của câu cách ngôn : “Từ đống rác rưởi một con cọp vươn mình lên.” Ông là ai ? Ông từ đâu đến ? Dòng phái của ông là gì ? Ông đã học hỏi ở đâu ? Sự thực hành của ông là gì ?”

Trả lời, Mila hát bài ca này :

Con lễ lạy chân lama của con.
Ngài chuyển hóa đất thành vàng,
Vàng thành viên ngọc như ý,
Và viên ngọc như ý thành nguồn của mọi phẩm tính tốt đẹp.

Bây giờ con sẽ đưa ra vài câu trả lời
Cho những câu hỏi của vị thầy đạo Bošn này :

Quê hương tôi là Tsa Rošn trên đồng bằng Gungthang.
Tôi đến UŠ và Tsang để học.
Vào thời trẻ tôi đã hủy diệt những kẻ thù đáng ghét của tôi
Với tà lực, nguyền rủa và mưa đá.

Sau đó tôi cảm thấy hối hận vô cùng
Và đi gặp Marpa dịch giả.
Nhận được pháp, tôi lấy thực hành làm mối quan tâm duy nhất.
Và khai quang xuyên qua mê lầm đến trạng thái tự nhiên.
Với sự chứng ngộ trạng thái hiện thực sanh ở bên trong,
Giờ đây tôi không còn sợ ngay cả cái chết.

Cái nhìn của tôi là thấy thực tại ;
Tôi trau dồi những khí, kinh mạch và hạt.
Tôi thực hành trong trạng thái của thực tại hiện tiền –
Ba thân tự nhiên là kết quả của tôi.

Lama của tôi là Marpa Lotsawa,
Dòng của ngài truyền từ Tilopa và Naropa
Cho đến bậc chiến thắng Vajradhara.
Tôi theo sự thực hành những Tantra Nói Thầm Vào Tai(35)
Và như thế đạt được sự làm chủ những khí và kinh mạch.

Vị thầy tu đạo Bošn xúc động mạnh, “Tôi kinh ngạc ! Và những người thực hành Pháp các vị nói gì về tôn giáo Bošn, cái swastika (nghĩa là thực tại) tối hậu ?”

Mila tiếp tục :

Hãy nghe, vị thầy Bošn – tôi sẽ làm an ổn những nghi ngờ,
Lồng cũi mê lầm và suy nghĩ sai của ông.

Trước tiên, về nguồn gốc của Pháp
Ngài được gọi là Phật
Ngài đã khai triển trí huệ sáng soi
Qua sự loại trừ mọi huyễn hoặc.

Phật thì không có bắt đầu hay kết thúc –
Phật nguyên sơ(36) thì không có nguyên nhân –
Điều này thường được nói trong kinh điển.
Chúng sanh vô minh từ khởi thủy,
Thu góp hành động (nghiệp) qua vô minh ấy.
Họ có những thân thể tương ứng,
Và như trước, thu góp những hành động khác nhau
Với cái thân mới này.

Hành động (nghiệp) có ba thứ – tốt, xấu và trộn lẫn.
Hành động bị điều động bởi ba độc
Giận ghét dẫn sanh về địa ngục,
Tham muốn dẫn sanh hồn ma không thỏa mãn,
Và mê lầm dẫn sanh thành thú vật.
Hành động trộn lẫn sanh ra những kết quả khác nhau trong ba trạng thái này.

Hành động tốt dẫn đến những trạng thái cao hơn,
Và hành động tốt tối cao
Làm tăng trưởng hai kho công đức và trí huệ
Bố thí, trì giới và nhẫn nhục
Là nguồn của công đức ;
Và định và huệ,
Trong cuộc sống làm người hay làm trời,
Là nguồn của đại trí huệ.

Tuy nhiên định mà không có trí huệ thấm nhuần,
Dầu có tốt đến bao nhiêu,
Chỉ dẫn sanh bốn thiền và bốn xứ
Ở trên đỉnh của hiện hữu sanh tử.(37)
Khi nghiệp quả đã hết tận,
Người ta lại lang thang trong sanh tử luân hồi.

Tinh tấn tham dự vào tất cả các ba la mật kia :(38)
Và trí huệ được hoàn thiện
Bằng cách hòa hợp định và huệ
Qua sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên như nó vốn là.

Những kết quả của việc hoàn thành hai kho
Công đức và trí huệ theo lối này
Gồm pháp thân như hư không cho chính mình,
Do bởi trí huệ thanh tịnh,
Báo thân như một mặt trời giữa hư không
Dành cho sự tu hành của những đệ tử đã phát triển,
Và hóa thân như những tia sáng mặt trời
Dành cho những người tu hành kém phát triển,
Cả hai đều từ kho công đức.

Cấu trúc này được gọi là
“Ba thân tự nhiên là quả” ;
Mẩu nhỏ hấp dẫn của giáo lý như thế
Là một phần nhỏ của giáo pháp.

Những người ngu càn rỡ của thời trước
Nói rằng Bošn và Pháp là anh em.
Lý do của điều này
Được những người đạo Bošn ngày xưa giải thích như sau :

“Vào khởi thủy không có đất hay trời.
Nước, lửa, không khí không hiện hữu.
Từ trạng thái trống không nguyên thủy này
Mẹ Bošn “Kho Tàng-Không Gian” nổi giận
Thở nguyên tố không khí từ miệng bà,
Phát ra nguyên tố nước như là nước tiểu,
Và chớp sáng ra lửa từ hơi nóng của tâm mình.

“Bà ép răng và móng tay thành nền đất
Trên đó cái trứng của hiện hữu được tự sinh,
Và từ sự bể vỏ của cái trứng này
Sáu loại chúng sanh, thế giới hình tướng và cả đạo Bošn khởi sanh.”

Họ tuyên bố Pháp khởi sanh sau đạo Bošn !
Vì lý do đó chúng là anh em của nhau
Theo sự càn rỡ của những người ngu ấy.

Vào khởi thủy trời không hiện hữu.
Trời thì tương đương với không gian.
Không gian thì tự nhiên trống rỗng
Và không thể nói là hiện hữu hay không.

Một “bà mẹ-không gian” trong cái trống không ban sơ này
Cũng là điều xằng bậy của những người ngu –
Hãy bịt tai ông với hai bàn tay
Trước tiếng vang của điều càn rỡ đó.

Theo những nguồn tài liệu mới mẻ hơn
Một pháp sư Phật giáo rất thông tuệ
Ở trong xứ Ấn Độ
Đến thăm nhà một cô gái điếm.

Thức dậy trước bình minh, ông mặc y phục,
Nhưng do lầm lẫn ông mặc vào
Cái váy của người đàn bà thay vì của mình.

Trở về tu viện lúc bình minh
Người ta thấy ông mặc một cái váy xanh
Và ông bị đuổi khỏi cộng đồng.

Sau cùng ông tìm đường đến Tây Tạng
Và với cảm nhận khắc nghiệt trong xứ sở lưu đày này
Đã sáng tạo một tôn giáo sai lầm và đặt tên là Bošn.
Vào lúc đó ở miền Thượng Tây Tạng(39)
Một đứa con trai do một người đàn bà sanh ra
Bởi một con rồng đen vĩ đại và thần lực.

Nó có hai tai rất lớn
Và như thế được biết
Với cái tên Đứa Bé-Lừa.

Dù nó là con của một con rồng thần lực,
Mẹ nó theo đạo Bošn,
Thế nên khi cậu bé lớn lên
Cũng được học đạo Bošn,
Và được gọi là người-Lừa Shenrab.(40)

Bấy giờ nghe danh tiếng
Của vị thầy đạo Bošn là Váy Xanh,
Shenrab đi qua bình nguyên bao la miền Bắc để đến với ông.

Dòng đạo Bošn mới này
Chỉ có từ Váy Xanh và Shenrab.
Như thế nếu ông nghĩ : “Nếu cả hai đều dẫn đến cái tối hậu,
Đâu là sự khác biệt giữa Pháp và đạo Bošn ?”
Tôi sẽ trả lời rằng tổ tiên của đạo Bošn
Là người thoái hóa tôn giáo, rồng thần lực và ma quỷ –
Làm sao nó đưa đến cái tối hậu ?

Như thế đạo Bošn có một dòng dõi tổ tông thấp kém,
Và giống như mọi tôn giáo “ngoại đạo”
Khác với Pháp ở nguồn gốc quy y :
Tam Bảo là nơi quy y cho những người Phật tử,
Trong khi Brahma, Isvara và Visnu cho những người ngoại đạo.

Đức Phật toàn hảo là bậc
Có thể giải thoát cho những người khác
Dù ngài đã giải thoát khỏi sanh tử ;
Nhưng những vị trời thế gian như Isvara,
Họ còn bị trói buộc vào sanh tử,
Chỉ có thể ban cho
Những thành tựu thế gian nhất thời –
Làm sao họ có thể ban cho sự tự do của giải thoát ?
Đó là lý do họ được gọi là “ngoại đạo”.

Quả thực những người thực hành đạo Bošn,
Có thể chữa bệnh, xóa bỏ những ngăn chướng,
Và sở đắc những thành tựu bình thường.
Nhiều thành tựu giả đạo Bošn
Cỡi những cái trống bay qua bầu trời,
Đốt những đám lửa lớn trên nước,
Cắt sắt bằng một lông vũ, vân vân.
Nhưng nếu ông nghĩ đấy là những dấu hiệu của sự phát triển,
Tôi sẽ giải thích nó như vầy :

Thiền định về thế giới rỗng không, như huyễn, hình tướng bên ngoài
Sẽ chuyển thành tương ứng –
Ông đã nghe trở thành một con cọp
Bằng cách quán tưởng thân thể ông là một con cọp ?

Thiền định về đất, không khí, lửa và nước
Cũng tạo ra như những kết quả,
Nhưng gốc rễ của ảo tưởng này
Chỉ một vị Phật mới chặt đứt được –
Không ai khác có thể phá hủy ảo tưởng.

Như thế con đường chân thật được du hành
Khi thực hành những lời dạy của một vị Phật không còn mê lầm –
Phật quả không đạt được bằng bất kỳ con đường nào khác.

Nếu người ta bị hạn cuộc vào những thành tựu thế gian,
Làm sao người ta đạt đến cái tối hậu
Bằng Ấn giáo, Bošn, hay những đường lối khác ?
Và nếu bay trên trời là đủ
Thì mọi con chim phải là những vị Phật !

Bởi thế, mọi thứ này
Chỉ là những dấu hiệu của chứng đắc thế gian
Có một bản chất hình tướng bề ngoài, như huyễn
Không thể đưa người ta đến giác ngộ.
Khi mọi sự được thiền định là hoàn toàn trống không
Để có được sự chứng nghiệm về trống không
Và cắt đứt ảo tưởng của tâm thức
Về huyễn ảo có từ vô thủy,
Nó dẫn đến lý thuyết hư vô khiến sa vào các trạng thái thấp
Và không thể ngăn ngừa sự tăng trưởng của thống khổ.
Hơn nữa, ham muốn có những thành tựu là theo vật chất,
Nó cũng cột trói người ta vào sanh tử.

Như thế nếu ông muốn đi vào con đường không sai lầm,
Hai thực tại cần được biết :
Thế giới giả tạo và cái tuyệt đối.

Cái giả tạo cũng có hai :
Cái giả dối và không thực.
Và cái thực nhưng theo điều kiện mà có.

Cái trước, cái giả tạo hư giả –
Như cái phản chiếu trong nước hay trong gương –
Không được xem là thực thậm chí với con trẻ ở đời.
Cái sau, tất cả mọi hiện tượng bề ngoài –
Cho đến khi đạt đến Niết Bàn
Có vẻ là thực –
Như vậy đều là thực một cách bề ngoài giả tạo.

Để chứng ngộ thực tại tuyệt đối,
Hãy dẹp bỏ những ngăn chướng của hành động và của phiền não
Bằng cách thu góp một kho vĩ đại công đức
Nhờ bố thí, trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn.
Và hãy dẹp bỏ sự ngăn chướng với toàn giác
Bằng tập trung thấm nhuần trí huệ.

Bấy giờ bằng cách hòa nhập định tĩnh thuần khiết và quán chiếu,
Thực tại tuyệt đối được giáp mặt.
Đó là con đường chứng ngộ của những thiền giả repa.

Sự giải thích chi tiết của Mila về những điểm này qua trung gian ngôn ngữ hùng biện của ngài gợi ra niềm tin vững chắc nơi những người nghe. Khi tiếp xúc với Jetsušn, tu sĩ đạo Bošn từ bỏ tôn giáo của mình và xin được quán đảnh và dạy dỗ. Ông xoay hướng cái nhìn về mục tiêu thực tại và sau khi hoàn thành giai đoạn phát triển được đời biết đến như một thiền giả lão luyện, tuyệt hảo.

uongdongsuoinui-07



Mila và “giấc mộng” gợi ý


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10307)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8837)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4462)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4680)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5568)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4842)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9924)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 5001)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 23147)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18774)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]