Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Mila thu nhận một nữ đệ tử trẻ tại buổi tiệc làng

09/01/201106:25(Xem: 4491)
12. Mila thu nhận một nữ đệ tử trẻ tại buổi tiệc làng

12

Mila thu nhận một nữ đệ tử trẻ
tại buổi tiệc làng


Một lần nọ Jetsušn Milarepa vĩ đại du hành trong vùng Yard-rog và khất thực. Ngài đi trên con đường làng Bay Nyošn và đến một nhà nơi đó có nhiều người đàn bà vào ra. Ngài ngồi ngay ngoài cửa. Một người đàn ông đến nói với ngài, “Chúng tôi đang uống bia ở bên trong. Thầy có muốn vào với chúng tôi không, thiền giả ?” Mila trả lời, “Tôi vui lòng, nhưng họ không phiền trách chứ ?”

“Họ chẳng nói gì đâu.” Người ấy cột con chó lại, báo ngài biết, và đi vào.

Đám đông nhóm họp cho một buổi tiệc mừng đứa bé trai của một người đàn bà giàu mới sinh. Người đàn ông gọi từ phía trong, “Này thiền giả ngoài cửa, tôi mời thầy vào ! Đến với phần của thầy đây !”

Nhiều người đàn bà có mặt ở đó, nói chuyện líu lo. Vài người bình phẩm đại loại : “Này thiền giả, ông đã từng có vợ chưa ?” “Ai lấy cắp mất áo quần của thầy ?” “Hôm nay chúng tôi tốn tiền cũng xứng – chúng tôi được xem màn biểu diễn da thịt.” “Đây là một thiền giả vô liêm sỉ ! Nếu ông biết mặc quần áo, tôi sẽ cho ông một bộ đồ cũ.”

Họ giễu cợt và chọc ghẹo ngài như vậy, cho đến lúc một cô cháu hai mươi mốt tuổi của chủ nhà cúng dường ngài một cái bánh lúa mạch và một miếng thịt với một ly lớn bia. Cô có cảm tưởng vị thiền giả này là một người rất tốt và nói với ngài, “Đại thiền giả, những hành động thấp kém đè nặng lên những người đàn bà này. Bia đã đến tay họ, và họ đã tích thêm một mớ nghiệp xấu. Sao ngài không hát về những lỗi lầm của những người đàn bà ấy ?”

Mila trả lời, “Tôi không biết gì về chuyện đó.”

Nhưng cô gái kiên trì, “Con có thể nói qua cách ăn mặc ít ỏi của ngài rằng ngài chắc đã thực hành cao trong thiền định. Với thái độ cởi mở, bộc trực ngài chắc đã chứng ngộ tánh Không nền tảng của thế giới huyễn mộng. Với sự chịu đựng và nhẫn nhục với chọc ghẹo này, ngài phải có nhẫn nhục để thực hành Pháp. Với một ánh sáng rạng rỡ như thế chiếu sáng qua màu da xanh như cây sậy của thân thể ngài, không bị sự mất quân bình của bốn đại của ba yếu tố tính khí(20) làm phiền nhiễu, ngài chắc chắn là một hành giả chứng đắc của Pháp khó làm. Với đôi chân trần không bị sỏi đá và gai góc đe dọa và không ngại gió lạnh và tuyết, ngài phải đạt được sự làm chủ khí và kinh mạch. Tâm thức mạnh mẽ của ngài, lưỡi dài, mềm mại của ngài đẹp như một cánh hoa sen, và cổ họng cao rộng của ngài chỉ ra rằng ngài phải hiện thân một kho tàng bài ca kim cương. Hơn nữa, ngài là một người hảo tâm vĩ đại. Tất cả mọi thứ ấy đã chứng tỏ như vậy. Tại sao ngài không hát một bài ?”

Cha người đàn bà trẻ ngắt lời, “Tôi đã hy vọng con gái tôi phải tốt hơn thế ! Con không tự tỏ ra hảo tâm tí nào. Chớ có yêu cầu ngài hát cho chúng ta, những người thô lỗ – hãy để ngài nghỉ.”

Mẹ cô thêm vào, “Tôi chỉ thấy một người xin ăn bình thường, và ông ta có thể nói một cách trần trụi như vậy thôi ! Chỉ có con mới ca ngợi một người như thế. Nếu con quá xúc động như thế, hãy theo ông ta đi !” Nói xong, bà ném một nắm đồ dơ bẩn vào cô.

Những người khác tiếp tục giễu cợt và cười đùa, Jetsušn nghĩ, “Nếu ta không hát, người đàn bà trẻ này sẽ nghĩ ta là một người ngu, và những người khác sẽ lại tạo thêm nghiệp xấu. Và thiền giả nào về sau đến đây khất thực sẽ được đón tiếp rẻ rúng.” Thế rồi thình lình đứng lên, đặt tay phải lên má và cắm đầu cứng của cây gậy dài vào đất với bàn tay trái, ngài hát bài ca này :

Hãy nghe đây, các thí chủ có lòng tin,
Thường khinh người như các vị thần,
Và xúc phạm tôi một cách đặc biệt –
Hãy nghe, các bà trẻ và già :

Tôi sanh từ hạt giống của vị lama – cha độc nhất của tôi,
Thường được nuôi dưỡng bởi người mẹ cái thấy trí huệ.
Tôi ôm ấp bầu sữa của sự tuân thủ nhân quả
Và thường sưởi ấm bởi hơi nóng của những giáo huấn sâu xa.

Tôi ăn đi ăn lại thực phẩm của định tâm
Và uống dòng nước của tâm giác ngộ.
Tôi mặc áo quần sức nóng phúc lạc đẹp đẽ của tummo
Buộc khăn thắt lưng của tỉnh giác chánh niệm.

Tôi mang đôi giày nâng cao cái nhìn vào chân
Cột với quai của trí huệ soi thấu,
Vai khoác tấm da hươu của khiêm nhường,
Và mặc tấm da cừu của nhẫn nhục kiên trì đàng sau.

Tôi buộc cái gương của nội quán sáng tỏ bên hông
Và trang sức thân bằng đồ trang sức đẹp của đạo đức,
Ngồi thư giãn trong định tĩnh vững chắc,
Miệng và thân được kiểm soát bởi lương tâm và hổ thẹn.

Trí huệ tôi chói sáng với chánh niệm,
Mặt được làm tôn lên với nội quán,
Và trí thức gồm cả năm khoa học (ngũ minh).(21)

Phu nhân tịnh quang xinh đẹp của sự kết hợp phương tiện và trí huệ,
Là đủ cho một người vợ để giúp đỡ chúng sanh ;
Pháp thân tự nhiên là đủ cho tôn giáo.

Mọi người có mặt ở đây trong căn nhà đông đúc này,
Nhất là các “bà cao quý” trẻ và già,
Và đặc biệt người đàn bà trẻ liếng thoắng này,
Hãy dừng sự ồn ào và lắng nghe bài ca :

Chẳng lẽ tôi không thể
Trụ vững trước những trò vô nghĩa của các người –
Đó chỉ là tính khí riêng của các người.
Hãy giữ điều này trong tâm, hỡi những người tầm thường :

Bám chấp vào thân thể các người, đống thịt máu này,
Là lẽ tự nhiên.
Thân thể các người bị điều khiển bởi những quy định, xu hướng tâm thức xấu,
Và bị thổi tung bởi những ngọn gió vô thường.
Khi các người bị kích động không thể kiềm chế,
Thì cũng giống như một bãi đất của heo và chồn trong mùa hè.
Chớ canh chừng kẻ lang thang này,
Đầu các người xoay trên vai
Như những con dê nhiễm độc vì cỏ ba lá.
Mắt các người phóng đi khắp chốn, không thể kiểm soát,
Như lé đi khi nhìn vào ánh mặt trời làm đui mắt
Lúc nhìn thấy một người đàn ông đẹp trai.

Miệng các người líu lo những điều vô nghĩa
Như một kẻ lên đồng bị ma ám.
Tâm và thân các người búng nhảy
Như những con cá mắc cạn trên đất liền.
Mọi nẻo đường đầy tiếng ồn ào của các người,
Mọi đường lộ trong xứ đầy sự tới lui của các người.
Các người treo cái giỏ len từ đầu với một cái quai
Và giữ xương sống như một cái giáo.

Khi các người cùng nhau khâu vải vụn, nó là một cái bị để ăn cắp.
Và khi hàng xóm các người than phiền về việc đó, các người tranh cãi –
Nếu có cơ hội các người còn lấy luôn cái quần lót của mẹ mình !
Nếu các người thấy cái gì đẹp, cái mặt như khỉ của các người cười như miệng một cái chuông ;
Còn nếu không thích, mặt các người như một con lạc đà cáu kỉnh
Khi làm công việc nhà
Các người giữ con nhỏ trong lòng như một món nợ chưa trả.

Khi xay ba lon lúa mạch,
Các người ăn hết một lon,
Làm đổ một nửa lon trên đất,
Và kiêu căng với vài nắm còn lại.
Các người nói chuyện với cái miệng tọng đầy thức ăn,
Kẹp ống thổi lửa bằng đùi,
Ngồi ngay trên những bao bột,
Và làm đổ dầu lung tung khắp lò.

Các người ném những cái nhìn dữ tợn vào chồng mình
Và hung dữ như một con cọp đối với mẹ chồng.
Những đứa con dòng dõi của các người ngồi quanh đám lửa,
Và các người thường đánh chúng bằng que khơi than.

Bắp chân các người đáng nên cứng chắc nhưng lại thõng xuống ;
Tóc đáng ra chảy xuống, nhưng chĩa ngược lên,
Sự ăn uống nghèo nàn đã làm hư làn da các người,
Và thiếu quần áo tốt thật là tồi tệ.

Các người làm trò phù thủy ngày đêm để xua đuổi kẻ thù.
Với sự có mặt của một xác chết được sống lại như vậy
Lò sưởi của các người chôn vùi trong một đống tro
Tích góp qua tháng này năm nọ
Từ sậy được đốt như trong thời nạn đói.

Những người đàn bà sa đọa, ích kỷ !
Khi các người chết, các người sẽ đi về xứ quỷ đói !

Nếu ta phê bình, ta sẽ phê bình thế ;
Các người không có chút cảm giác hay thận trọng gì
Với ta, người hành thiền, kim cương tự sanh.

Tuy nhiên hãy nghe nữa, hỡi các bà ;
Tôi sẽ diễn tả một người đàn bà như hoàng hậu để noi theo :
Đôi tay và tư thế bà thư giãn và bình an,
Miệng và thân được kiểm soát tốt đẹp.
Thông minh và khéo léo trong thủ công,
Bà hành động cẩn trọng nhờ tỉnh giác chánh niệm và phê phán.

Bà ưa sạch sẽ, lễ phép kính cẩn và cương quyết,
Thờ phụng Tam Bảo như cái tối cao,
Và giúp đỡ cho những người nghèo thấp kém.

Bà đối xử với gia đình mình như cái gì quý báu,
Kính trọng người già,
Che chở tôi tớ như con cái mình,
Và cư xử với mọi người theo phẩm chất của họ.

Bà làm thế nào để tích tập công đức bố thí
Và giữ những lời nguyện giới cấm(22) vào lúc đúng thời.
Bà thực hành Pháp của cư sĩ với lòng nhiệt thành,
Và khi một thực hành thích hợp, bà đảm nhận nó.

Nguyện tất cả những người thích thú
Hay không thích thú khi tiếp xúc với tôi
Được chia phần trong giác ngộ.

Mọi người vui vẻ đồng tình và đầy cảm hứng về Pháp. Cha của người đàn bà trẻ nói, “Rốt cuộc, con gái tôi thật khôn ngoan ! Ngài quả đúng như nó nói.” Ông đảnh lễ Jetsušn và xin quy y với ngài.

Bấy giờ, người đàn bà trẻ hỏi cô có thể thực hành Pháp được không. Mẹ cô trả lời, “Quả thật nó luôn luôn nói nó muốn thực hành Pháp, nhưng còn có một vấn đề. Nó đã được hứa gả cho một người con trai xứng đáng của một người giàu có vừa mới ngày hôm qua. Chúng ta phải làm cho hợp cách.”

Nhưng cha cô nói, “Đứa con gái của ta thông minh. Nó thích hợp với việc thực hành Pháp. Chớ có ngăn cản nó – những kết quả xấu của việc ngăn chặn sự thực hành Pháp là rất lớn. Nếu con muốn thực hành Pháp, cha sẽ có em gái con để tròn lời hứa nhận. Thế là tốt đẹp rồi. Con hãy làm điều con muốn.”

Lúc ấy nhiều người đàn bà khác thúc dục cô, “Hãy tiến lên đi, hãy thực hành Pháp.”

Cô cầu xin Jetsušn. Thấy cô quyết tâm, ngài ban cho cô lời dạy Pháp và những truyền pháp quán đảnh. Cô thực hành ở Semodo và về sau trở thành một đại thành tựu giả, sau đó giúp đỡ được nhiều người. Jetsušn vĩ đại rất hài lòng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10307)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8837)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4462)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4680)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5568)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4842)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9924)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 5001)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 23147)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18774)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]