Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Bài ca trong mưa của Mila

09/01/201106:17(Xem: 4721)
3. Bài ca trong mưa của Mila

3

Bài ca trong mưa của Mila

Một lần khi Jetsušn đang ở trong động Pelma Gel, ngài đi khất thực tại một chỗ đóng trại rộng lớn. Một nữ thí chủ trẻ lễ bái và cho một mẩu bơ nhỏ. Nhớ ra mình đã nhận phần thức ăn hàng ngày, ngài nói : “Ta không có ngay cả một thùng chứa để cất giữ món bơ này, hãy giữ nó cho con.”

Người đàn bà lấy làm lạ và xin ngài ở lại một buổi. Ngài nhận lời, ngồi ở ngoài xa. Một trận mưa như thác đổ rơi xuống, và bà nói với ngài : “Ô, hãy để tôi dựng tấm bạt che đầu.”

Mila trả lời với bài ca này :

Con đảnh lễ dưới chân viên ngọc quý trang sức cho đầu con,
Người đáp ứng mọi ước mong và nhu yếu.

Người đàn bà duyên dáng được ban ơn với con cái và sung túc,
Quản lý một kho dồi dào những tặng vật,
Mặc chiếc áo len của phước đức –
Hãy nghe đây, phu nhân sùng đạo.

Nếu bà không biết tên tôi,
Tôi là Milarepa của bình nguyên Gungthang –
Một người khất thực tự ý lang thang.
Xúc động bởi sự khốn khó của tôi vì gió và mưa,
Bà trao cho sự giúp đỡ này trong tinh thần nhân từ chân thật.
Những ý định tốt đẹp như vầy thật đáng ngạc nhiên.

Tôi đã du hành qua những đồng bằng của sáu cõi huyễn
Nơi cơn mưa của thống khổ rơi không ngừng nghỉ
Và sương mù tối tăm của vọng tưởng đầy đặc quanh tôi.

Tôi đã không có cái mũ rộng của chánh kiến,
Áo mưa của niềm tin không nao núng,
Và hang động khô ấm của sự quy y tốt đẹp.
Bị cuốn trôi bởi dòng sông tâm thức khát khao.
Bị sưng phồng vì những cơn mưa quất của nghiệp xấu,
Tôi đã bị đem tới chân trời xa của đại dương thống khổ,
Đẩy đưa trên những ngọn sóng của ba cõi thấp,
Và va vào những tảng đá của nghiệp dữ.

Sợ hãi những khổ đau không thể chịu nổi như thế
Trong những đời tương lai không thể tính đếm,
Tôi dựng lên chiếc lều trắng của chánh kiến
Trên bình nguyên bao la của niền tin không nao núng.

Tôi siết chặt những sợi thừng cột lều của kinh nghiệm thiền định.
Đóng chắc những cọc lều của sự thực hành không lầm lỗi
Dựng thẳng những cây chống của ba thân có được,
Và dương lên ngọn cờ của tịnh hạnh.

Tôi truyền bá tiếng trống thánh pháp đi mọi hướng,
Và trên ngai của thế giới bên ngoài đa dạng
Uống nước cốt của mọi giáo lý thâm sâu.

Trên cao nguyên rộng lớn của tình thương và bi mẫn,
Tôi chăn dắt đàn cừu của sáu cõi ra khỏi bờ vực
Và gom góp cam lồ của toàn trí
Không chướng ngại đối với mọi sự vật.

An lạc bên trong, tôi không ấp ủ
Cái ý niệm “Tôi đang khổ đau”
Khi cơn mưa không dứt đổ xuống bên ngoài.

Ngay cả trên những đỉnh núi tuyết trắng xóa
Ở giữa cơn mưa tuyết xoáy cuộn
Theo những ngọn gió đông đầu năm
Cái áo vải này cũng rực lên như lửa.

Người đàn bà trẻ xúc động với lòng tin mạnh mẽ. Chiều hôm đó bà bà cầu xin ban phước và lễ nhập môn, cúng dường một lễ cúng. Mọi người khác của chỗ đóng trại ấy cũng đến để kết duyên với Jetsušn. Họ dâng nhiều thứ cúng dường, nhưng ngài không nhận, hát bài ca này :

Con cầu nguyện dưới chân lama từ ái của con.
Mọi đồ ăn thức uống các bạn đã dùng
Qua suốt sanh tử từ vô thủy
Cho đến đời hiện nay
Đã không cho các bạn sự thỏa mãn hay hài lòng.
Bởi thế hãy ăn thức ăn này
Của chánh định, hỡi những người có phước.

Mọi sự thịnh vượng các bạn đã sở đắc
Từ thời vô thủy đến nay
Đã thất bại không thể đáp ứng mọi ham muốn của các bạn.
Bởi thế hãy trau dồi viên ngọc như ý này
Của sự điều độ, hỡi những người có phước.

Mọi bạn bè của bạn đã biết
Từ thời vô thủy đến nay
Đã không bao giờ ở lại bên cạnh bạn.
Bởi thế hãy giữ sự bầu bạn trường cửu
Với Đại Ấn bổn nguyên, hỡi những người có phước.

Biết rằng tài sản tích trữ rồi cũng bị bỏ lại đàng sau,
Tôi không khao khát sự thịnh vượng của một người giàu,
Và vì thế tôi không muốn các đồ cúng dường của các bạn.

Mong các bạn sống lâu, hạnh phúc và sức khỏe,
Thoát khỏi khổ đau và cái chết bất ngờ,
Và tái sanh trong một cõi thanh tịnh của Phật.

Rồi Mila bỏ đi đến Núi Khối Đỏ đồng bằng Gungthang.

Một thiền giả đến để khám phá về con người mà danh tiếng đã lan truyền khắp Tây Tạng. Như thế, bài ca đầu tiên của Mila nhằm vào bản chất lừa dối của tên tuổi và tiếng tăm. Thiền giả bối rối khi thấy hoàn cảnh đơn độc, khổ hạnh mà Mila thích ở để tu hành – cực kỳ nhàm chán đối với những hành giả đương thời. Mila hát cho ông nghe một bài ca về tính không sợ hãi của hành thiền và một bài ca về những giáo huấn-ngắn, những bài phát biểu cốt lõi như là những chìa khóa để hiểu và thực hành. Ở đây chúng đề cập đến bản chất giải thoát tự nhiên của thế giới hình tướng và phương cách trừ sạch những thành kiến sai lầm khiến chúng ta tri giác lầm lẫn thế giới như chúng ta vẫn thường làm. Dầu cho không được đề cập đến, những giáo huấn này ám chỉ sự thực hành Đại Ấn và là những chỉ hướng chính xác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 21635)
Năm 1921, khoảng bẩy trăm tăng ni cư sĩ tụ họp tại am thất Chuzang gần Lhasa để nghe pháp tu Lam-rim do bậc thầy Kyabie Pabongka Rinpoche giảng. Suốt ba tuần lễ kế tiếp họ được hấp thụ những thời pháp nổi tiếng nhất đã từng được giảng ở Tây Tạng.
09/04/2013(Xem: 12351)
Nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.
08/04/2013(Xem: 8779)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 9098)
Trong bài thường nhắc tới tước hiệu tôn giáo của các trưởng lão Miến Ðiện (chẳng hạn Nànàlankàra, Ariyàlankàra, Vicittalankàra, Kavidhaja, ...), chúng tôi quyết định để nguyên vì tạm thời không có tài liệu tra cứu và cũng do thấy không cần thiết.
08/04/2013(Xem: 17306)
Chơn Ngôn Tông Nhật Bản. - Satoo Ryoosei & Komine Ichiin. Thích Như Điển Dịch
08/04/2013(Xem: 4634)
Sau đổi mới 1986, nền giáo dục đã mở rộng cửa cho Tăng ni sinh đặt chân đến học đường. Các trường học không phân biệt đối xử với Tăng ni sinh khi ghi danh vào học như trước đây. Ðiều này đã thúc đẫy phần nào số lượng Tăng ni theo học tại các trường Ðại học trong cả nước ngày một tăng.
01/04/2013(Xem: 5317)
Phật giáo du nhập các nước Tây Phương bằng cách nào? Trong thời gian Phật còn tại thế, Phật Giáo mới chỉ phát triển đến miền Tây Bắc Ấn Ðộ. Hai thế kỷ sau, đạo Phật lan rộng đến những vùng phía bắc sông Indus ở Punjab và xứ Afghanistan (A Phú Hản) ...
01/04/2013(Xem: 9528)
Chúng tôi rất hân hạnh được gặp gỡ để hầu chuyện với quý vị hôm nay tại nơi đây, vì mỗi người chúng ta đang đi tìm hiểu về giá trị và ý nghĩa đích thực của sự sống ...
19/12/2012(Xem: 5780)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]