Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thân Phận Con Người

28/04/202019:17(Xem: 2720)
Thân Phận Con Người

Phat thuyet phap 7

 

THÂN PHẬN CON NGƯỜI
Thích Giác Huệ



Vũ trụ không gian, thời gian đối với con người và vạn vật là một sự thể sinh động, chuyển hóa không ngừng theo một chu kỳ nhất định: "Thành, Trụ, Hoại, Không". Tuy nhiên sự tiến hóa về tâm linh, con người cũng như vạn vật, đều phát triển đồng bộ, nhịp nhàng và phù hợp theo định luật.

     

Những hạnh phúc hoặc đau khổ của chúng sanh nói chung, con người nói riêng, tất cả đều do chính mình gây tạo, vì thế nên phải nhận chịu những hậu quả tốt, xấu về sau của cuộc đời !

     

Bởi những nghiệp quả thiện, ác mê chấp nặng nề, mà chúng sanh cũng không thoát khỏi sự tuần hoàn của vũ trụ thời gian, "sanh, già, bệnh, chết" theo luật định, cho nên cứ trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi không bao giờ ra khỏi được!

     

Vì không nhận rõ nguyên nhân (NHÂN) và hậu quả (QUẢ) của thiện ác, trong vòng sanh tử tương đối, con người mặc nhiên chấp nhận theo luật định, đồng thời xã hội loài người còn chia ra nhiều giai cấp khác nhau, nâng sự đau khổ càng lúc thêm gia tăng! Các giai cấp dưới, họ tự coi số phận mình như đã an bài, đành cam chịu không còn oán than! Các giai cấp thống trị càng ra sức bóc lột một cách tự nhiên, thậm tệ và coi như một đặc quyền tuyệt đối, bất khả xâm phạm của họ, vì vậy mà bất cứ  một xã hội nào, cũng có những cảnh bất công áp bức "mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, giầu khinh nghèo...", tạo thành những bối cảnh lịch sử của loài người hết sức phức tạp, hổn độn, đôi khi đưa đến những hành động dã man! Họ tự mâu thuẩn, hiềm khích lẫn nhau, rồi xâu xé trong nội bộ, gây chiến tranh vì màu da sắc tóc, vì "chấp ngã tham lam và ich kỷ..." nên những cảnh đau thương, tang tóc, chết chóc lúc nào cũng diễn ra khắp nơi trên thế giới!

     

Ngày xưa, nước Ấn Độ thời Phong kiến Quân quyền, khi Thái Tử Sĩ Đạt Ta ra đời, Ngài có những nghi vấn lớn. Ngoài những bất công xã hội đó, Thái Tử còn có những nổi lo âu thắc mắc rất trọng đại hơn ! "Taị sao chúng sanh phải chịu những cảnh sanh, già, bệnh chết" không tránh khỏi?

     

Những suy tư của Thái Tử càng thêm gia tăng, dồn dập và thúc đẩy, nên Ngài quyết định rời bỏ hoàng thành xuất gia "Tầm Đạo", với một ý chí siêu việt xuất trần, Thái Tử gạt bỏ tất cả những hạnh phúc riêng tư: nào vợ đẹp con xinh, cung phi mỹ nữ nơi cung son điện ngọc, ngày đêm túc trực đàn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Đồng thời chiếc ngai vàng cũng đang chờ đón Thái Tử bước lên! Nhưng Ngài vẫn mạnh dạn ra đi tìm Chơn Lý, không một chút quyến luyến, với tâm Đại Hùng, Đại Lực và Đại Từ Đại Bi thương xót chúng sanh!

     

Năm năm tìm đạo, sáu năm tu hành khổ hạnh trong rừng sâu núi thẳm, Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu gian nan khổ ải, những cực hình để thực hành các pháp, sự đói khát có thể làm mất thân mạng nhưng Ngài vẫn không sờn lòng nản chí!

     

Cuối cùng dưới cây bên cội cây Bồ Đề, Ngài tọa thiền và thệ nguyện: "Dù thịt có khô, máu có cạn, thân tan thịt nát, quyết không bao giờ đứng dậy và rời khỏi nơi này nếu không tìm ra Chân Lý!" Và rồi sau bốn mươi chín ngày đêm Thiền định, Ngài đã chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, Chánh Đẳng, Chánh Giác và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai.

     

Đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển, năm anh em ông Kiều Trần Như, những người bạn trước kia đồng tu với Ngài, sau khi nghe Ngài thuyết về "Tứ Diệu Đế", họ liền tỏ ngộ và đảnh lễ Ngài, xin làm đệ tử... Tiếp sau đó Ngài đi giáo hoá chúng sanh khắp nơi...

     

Tại Ấn Độ, Ngài đem giáo lý "Bình Đẳng" thâu các đồ chúng đủ các thành phần: từ các vị Quốc vương, Thái tử, Đại thần cho đến các hàng thứ dân v.v..., cứ theo thứ lớp thọ giới trước, sau mà nghiêm trì giới luật, y giáo phụng hành, không phân biệt vua, tôi, giầu nghèo, để đồng chúng tu học. Ngài đã xóa bỏ được các giai cấp bất công xã  hội của Ấn Độ. Đồng thời những định kiến sai lầm đã có từ lâu đời cũng lần lượt bị phá vỡ và sụp đổ!

     


ht thich giac hue
Chân dung tác giả, HT Thích Giác Huệ

Trong suốt 49 năm, Ngài đã mở trên 300 pháp hội để giáo hóa, tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh, Ngài dùng các phương tiện thiện xảo, để thuyết giảng các pháp rất khế hợp thế gian và xuất thế gian. Từ hơn hai mươi lăm thế kỷ nay, số đệ tử của Ngài từ các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát... , hằng hà sa số người quy y theo Phật tu hành đã chứng thành đạo quả và giải thoát.

     

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai hay các đức Phật thời quá khứ, các Ngài giáng sanh ra đời, cũng đều làm lợi lạc Nhơn, Thiên, với mục đich "Khai, Thị, Ngộ, Nhập » Phật tri kiến, Chuyển mê thành ngộ, Tức vọng quy chơn" phá tan màn vô minh đen tối của chúng sanh từ vô lượng kiếp, vì sự mê chấp mà phải chịu sự đọa lạc trong vòng sanh tử luân hồi theo luật định, không giải thoát được.

     

Nay ngày Phật Đản, chúng con thành kính đốt nén tâm hương, với cõi lòng thanh tịnh, dâng cúng Đức Thế Tôn và ngôi Tam Bảo: "Nguyện học và hành theo Hạnh Từ Bi của Ngài" để ghi nhớ công đức vô lượng vô biên của đấng Cha lành Thích Ca Mâu Ni Như Lai, cùng các đức Phật mười phương ba đời, các Ngài vì lòng thương xót chúng sanh, đem đạo Giải Thoát mà cứu độ, nguyện ơn trên chư Phật, Bồ Tát thường tùy lân mẫn gia hộ chứng minh cho chúng con có đủ hùng lực, tinh tấn tiến tu đạo nghiệp "Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Mãn và Hoằng Pháp Lợi Sanh Báo Phật Ân Đức!" trong thời hạ nguyên mạt pháp này!

 

Kính dâng một nén tâm hương,

Ba đời chư Phật mười phương cúng dường,

Thích Ca từ phụ chỉ đường

Đệ tử chúng đẳng tỏ tường lối đi,

Công ơn nghĩa nặng Từ Bi,

Dắt dìu sanh chúng kịp thì Long Hoa,

Mạt pháp nghiệp dữ Ta Bà,

Hoằng dương chánh pháp độ tha phen này,

Chúng sanh, chư Phật sum vầy,

Đời đời kiếp kiếp Tâm này Pháp vương.

 

Thích Giác Huệ

Pháp Quốc mùa Phật Đản 2006

 

(nguồn : http://txngocdiemfrance.free.fr/ )




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 8064)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 6744)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11085)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6692)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6371)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8149)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6748)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6153)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5491)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5543)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567