Vũ trụ không gian, thời gian đối với con người và vạn vật là một sự thể sinh động, chuyển hóa không ngừng theo một chu kỳ nhất định: "Thành, Trụ, Hoại, Không". Tuy nhiên sự tiến hóa về tâm linh, con người cũng như vạn vật, đều phát triển đồng bộ, nhịp nhàng và phù hợp theo định luật.
Những hạnh phúc hoặc đau khổ của chúng sanh nói chung, con người nói riêng, tất cả đều do chính mình gây tạo, vì thế nên phải nhận chịu những hậu quả tốt, xấu về sau của cuộc đời !
Bởi những nghiệp quả thiện, ác mê chấp nặng nề, mà chúng sanh cũng không thoát khỏi sự tuần hoàn của vũ trụ thời gian, "sanh, già, bệnh, chết" theo luật định, cho nên cứ trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi không bao giờ ra khỏi được!
Vì không nhận rõ nguyên nhân (NHÂN) và hậu quả (QUẢ) của thiện ác, trong vòng sanh tử tương đối, con người mặc nhiên chấp nhận theo luật định, đồng thời xã hội loài người còn chia ra nhiều giai cấp khác nhau, nâng sự đau khổ càng lúc thêm gia tăng! Các giai cấp dưới, họ tự coi số phận mình như đã an bài, đành cam chịu không còn oán than! Các giai cấp thống trị càng ra sức bóc lột một cách tự nhiên, thậm tệ và coi như một đặc quyền tuyệt đối, bất khả xâm phạm của họ, vì vậy mà bất cứ một xã hội nào, cũng có những cảnh bất công áp bức "mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, giầu khinh nghèo...", tạo thành những bối cảnh lịch sử của loài người hết sức phức tạp, hổn độn, đôi khi đưa đến những hành động dã man! Họ tự mâu thuẩn, hiềm khích lẫn nhau, rồi xâu xé trong nội bộ, gây chiến tranh vì màu da sắc tóc, vì "chấp ngã tham lam và ich kỷ..." nên những cảnh đau thương, tang tóc, chết chóc lúc nào cũng diễn ra khắp nơi trên thế giới!
Ngày xưa, nước Ấn Độ thời Phong kiến Quân quyền, khi Thái Tử Sĩ Đạt Ta ra đời, Ngài có những nghi vấn lớn. Ngoài những bất công xã hội đó, Thái Tử còn có những nổi lo âu thắc mắc rất trọng đại hơn ! "Taị sao chúng sanh phải chịu những cảnh sanh, già, bệnh chết" không tránh khỏi?
Những suy tư của Thái Tử càng thêm gia tăng, dồn dập và thúc đẩy, nên Ngài quyết định rời bỏ hoàng thành xuất gia "Tầm Đạo", với một ý chí siêu việt xuất trần, Thái Tử gạt bỏ tất cả những hạnh phúc riêng tư: nào vợ đẹp con xinh, cung phi mỹ nữ nơi cung son điện ngọc, ngày đêm túc trực đàn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Đồng thời chiếc ngai vàng cũng đang chờ đón Thái Tử bước lên! Nhưng Ngài vẫn mạnh dạn ra đi tìm Chơn Lý, không một chút quyến luyến, với tâm Đại Hùng, Đại Lực và Đại Từ Đại Bi thương xót chúng sanh!
Năm năm tìm đạo, sáu năm tu hành khổ hạnh trong rừng sâu núi thẳm, Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu gian nan khổ ải, những cực hình để thực hành các pháp, sự đói khát có thể làm mất thân mạng nhưng Ngài vẫn không sờn lòng nản chí!
Cuối cùng dưới cây bên cội cây Bồ Đề, Ngài tọa thiền và thệ nguyện: "Dù thịt có khô, máu có cạn, thân tan thịt nát, quyết không bao giờ đứng dậy và rời khỏi nơi này nếu không tìm ra Chân Lý!" Và rồi sau bốn mươi chín ngày đêm Thiền định, Ngài đã chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, Chánh Đẳng, Chánh Giác và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển, năm anh em ông Kiều Trần Như, những người bạn trước kia đồng tu với Ngài, sau khi nghe Ngài thuyết về "Tứ Diệu Đế", họ liền tỏ ngộ và đảnh lễ Ngài, xin làm đệ tử... Tiếp sau đó Ngài đi giáo hoá chúng sanh khắp nơi...
Tại Ấn Độ, Ngài đem giáo lý "Bình Đẳng" thâu các đồ chúng đủ các thành phần: từ các vị Quốc vương, Thái tử, Đại thần cho đến các hàng thứ dân v.v..., cứ theo thứ lớp thọ giới trước, sau mà nghiêm trì giới luật, y giáo phụng hành, không phân biệt vua, tôi, giầu nghèo, để đồng chúng tu học. Ngài đã xóa bỏ được các giai cấp bất công xã hội của Ấn Độ. Đồng thời những định kiến sai lầm đã có từ lâu đời cũng lần lượt bị phá vỡ và sụp đổ!
Trong suốt 49 năm, Ngài đã mở trên 300 pháp hội để giáo hóa, tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh, Ngài dùng các phương tiện thiện xảo, để thuyết giảng các pháp rất khế hợp thế gian và xuất thế gian. Từ hơn hai mươi lăm thế kỷ nay, số đệ tử của Ngài từ các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát... , hằng hà sa số người quy y theo Phật tu hành đã chứng thành đạo quả và giải thoát.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai hay các đức Phật thời quá khứ, các Ngài giáng sanh ra đời, cũng đều làm lợi lạc Nhơn, Thiên, với mục đich "Khai, Thị, Ngộ, Nhập » Phật tri kiến, Chuyển mê thành ngộ, Tức vọng quy chơn" phá tan màn vô minh đen tối của chúng sanh từ vô lượng kiếp, vì sự mê chấp mà phải chịu sự đọa lạc trong vòng sanh tử luân hồi theo luật định, không giải thoát được.
Nay ngày Phật Đản, chúng con thành kính đốt nén tâm hương, với cõi lòng thanh tịnh, dâng cúng Đức Thế Tôn và ngôi Tam Bảo: "Nguyện học và hành theo Hạnh Từ Bi của Ngài" để ghi nhớ công đức vô lượng vô biên của đấng Cha lành Thích Ca Mâu Ni Như Lai, cùng các đức Phật mười phương ba đời, các Ngài vì lòng thương xót chúng sanh, đem đạo Giải Thoát mà cứu độ, nguyện ơn trên chư Phật, Bồ Tát thường tùy lân mẫn gia hộ chứng minh cho chúng con có đủ hùng lực, tinh tấn tiến tu đạo nghiệp "Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Mãn và Hoằng Pháp Lợi Sanh Báo Phật Ân Đức!" trong thời hạ nguyên mạt pháp này!
Kính dâng một nén tâm hương,
Ba đời chư Phật mười phương cúng dường,
Thích Ca từ phụ chỉ đường
Đệ tử chúng đẳng tỏ tường lối đi,
Công ơn nghĩa nặng Từ Bi,
Dắt dìu sanh chúng kịp thì Long Hoa,
Mạt pháp nghiệp dữ Ta Bà,
Hoằng dương chánh pháp độ tha phen này,
Chúng sanh, chư Phật sum vầy,
Đời đời kiếp kiếp Tâm này Pháp vương.
Thích Giác Huệ
Pháp Quốc mùa Phật Đản 2006
(nguồn : http://txngocdiemfrance.free.fr/ )