Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Lời Mộc Mạc Của Thầy

23/04/202016:27(Xem: 3414)
Những Lời Mộc Mạc Của Thầy


ht dong chon 5

Những Lời Mộc Mạc Của Thầy



Trời vừa sáng, còn đang chấp tác công việc, bỗng nghe tin nhắn điện thoại…à thì ra lớp trưởng… lớp trưởng bảo: “viết bài cảm niệm ân sư, đền đáp ơn Thầy dạy dỗ”…

Giờ ngồi lại viết những dòng cảm nghĩ về Thầy, chúng con không biết mình sẽ viết gì nữa… Trên cõi trần này, tiễn người đi quá nhiều trong đời sống, những cảnh tượng ra đi của từng con người, dù người thân, người lạ… đều khiến chúng con có cái nhìn rõ hơn về trần thế này… Ôi… đau lòng lắm ạ!

Tính đến thời gian này, cũng đã mười mấy năm ròng rã, từng lớp giáo thọ ra đi, người hậu thế chúng con cứ lần lượt mà chứng kiến… việc sanh tử đại sự ai cũng thấu… không ai không nén nỗi đau thương… vậy nên Phật mới bảo: “thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã…”

Được ngồi trên ghế nhà trường của Phật Học Tu Viện Nguyên Thiều, chúng con được học duới sự chỉ dạy của Thầy, vừa học về kinh điển, còn được học về đạo đức người tu nữa… Những giờ học là những giờ Thầy vừa truyền trao giáo điển và truyền trao năng lượng tu tập, những cái truyền trao ấy thông qua lời dạy và lời kinh khi giảng và bằng thân giáo của Người. Giờ đây…! dù muốn nghe lại, muốn nhìn thấy cách Thầy giảng nói… cũng đã không còn nữa… Như chiếc là vàng lìa cành… rơi rụng… và mất đi…

Thầy đảm trách môn Sa Di Luật Giải và những môn liên quan về luật học, thầy nghiêm minh với chúng con như luật vậy, nhưng cũng hàm tiếu những cái vui để uyển chuyển trong đời sống thường nhật để thích hợp với bối cảnh cuộc sống. Từ chùa Bình An Thầy thẳng đến trường đến lớp, vô lớp niệm Phật và ngồi xuống lật sách ra, thế là đọc là dạy, một phong cách đặc trưng của thầy bốn năm không thay đổi…hihih…nhắc đến Thầy là bất kỳ ai cũng có thể hình dung cách dạy của Thầy, cách sống của Thầy, mà không thể vị giáo thọ nào cũng giống như thế!

… Hôm ấy… vào một giờ kiểm tra của tiết học, sau khi ra đề xong, vẫn như thói quen hằng ngày… Thầy vẫn ngồi yên đó… yên ngay trên ghế của giáo thọ. Chỉ cần ngồi yên như vậy thôi, thần thái uy nghiêm, lâu lâu mỉm cười cười…đủ để cả lớp yên lặng mà làm bài. Và rồi… thời gian trôi qua… 90 phút… sắp nghe tiếng kiểng reng lên hết giờ học… thế nhưng… vẫn im phăng phắt… Thầy đột nhiên lên tiếng: “…nay ai trực kiểng, mà không thấy đánh gì hết vậy … làm như siêng học vậy… hết giờ rồi… đi đánh kiểng coi… nộp bài đihông thầy về…”. Vẫn không ai đứng lên, vẫn im lặng, một vài tiếng cười vì nghe Thầy nói, nhưng lại nán thêm vài chữ… lại thêm vài phút trôi qua…và rồi Thầy đứng dậy, tay xách giỏ, dặm bước: “vài chữ được gì… thầy về đây, mấy con ngồi đó viết đi…”, vậy là cả lớp la làng lên, xin Thầy ngồi xuống và chạy lên nộp bài…vừa lén nhìn Thầy vừa cười, thấy rõ gương mặt của Thầy từ bi sao ấy, Thầy cười và ngồi xuống chờ nhận bài, lẩm bẩm vài câu chửi vui… “đồ lì như quỷviết chi cho cố…”.

Thế đó, giờ chúng con mỗi đứa một phương, đủ lớn để tung đôi cánh của mình giữa vùng trời rộng, nhưng vẫn là những cánh chim nhỏ bé giữa biển người, tri thức không đủ để đáp ứng giữa rừng người trong xã hội, mới thấy kiến thức nhỏ bé dường nào, mới thấy kiến thức khi còn đi học quý giá biết bao… và… mới thấy được kiến thức Thầy dạy cho chúng con ứng dụng vào đời sống quả thật không sai bao giờ. Câu nói không thể quên được trong một giờ học: “danh lợi nhạt như nước – sứ mệnh nặng tựa non”… mấy con ráng mà nhớ…” khiến chúng con hiểu được thâm ý của Thầy muốn gửi đến chúng con, và còn…một lần vì để sách tấn chuyện học, Thầy dạy: “lập chí biết suy là tuấn kiệt – học hành nên gắng hết công phu”… “ học mà đạo hạnh không cầm – khác gì cỏ dại mọc mầm đồi hoang

Chắc hẳn ai trong chúng con, nếu lần lượt được làm giáo thọ cho thế hệ sau, hẳn sẽ rõ và hiểu được tâm tư của một vị thầy giáo nó như thế nào… phải cố gắng hết mực vì đền ơn Phật mà truyền trao. Riêng bản thân chúng con chưa đủ phước duyên để đứng trên bục giảng, nhưng cái công của một vị thầy giáo dù đạo hay đời đều ý nghĩa cao tột, nhưng hai chữ “giáo thọ”chỉ duy nhất là người con Phật mới thấu hiểu, không đơn thuần chỉ dạy học như ngoài xã hội không thôi. Vậy nên Usinxki có nói: “nhân cách của người Thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học trò, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác”

Giờ đây, chúng con chỉ nhìn thấy Thầy qua di ảnh, thì bao nhiêu ký ức về Thầy hiện về, cũng chỉ là tái hiện lại những gì Thầy dạy, tái hiện lại bao hình ảnh về Thầy trước mặt chúng con, cũng chỉ như thế thôi, cũng chỉ là tái hiện … mà không còn hình ảnh thực để nhìn thấy rõ, nghe rõ nữa. Giới hạnh – công hạnh tròn đầy của Thầy sẽ luôn là tấm gương mà chúng con cần soi rõ. Dẫu biết ở cái cõi trần này, phước duyên không dễ dàng đến với người kém phước như chúng con, đúng là chỉ thấy hỗ thẹn khi chưa làm được gì mà Phật pháp cần, giáo hội cần, bản thân còn chưa hoàn thiện những việc nhỏ nhặt…Thế nên viết về Thầy, để mong còn nhìn lại hình ảnh Thầy qua tâm khảm, nhắc nhở mình thêm đôi chút để vững vàng trong tu tập, chỉ cần còn được khoác chiếc áo đơn điệu này mà Thầy hay bảo: “còn mặc cái áo này, đầu tròn này là quý lắm con, chủng tử Phật trong con sẽ không mất đi, đã là hình ảnh đẹp chung cho giáo hội và cõi trần này” đây là lời Thầy dạy khi đi đảnh lễ Thầy vào một dịp Tết, vì vậy mà chúng con tự nhủ “Dạ Thầy! chúng con sẽ cố gắng giữ gìn hình tướng người tu nhất có thể, sống đàng hoàng, nội tâm cho vững, thì đây cũng là cách đền ơn nhỏ nhất có thể rồi..”

Kính lạy Thầy! giờ cũng chỉ cúi đầu lạy Thầy qua tưởng niệm, qua ảnh Thầy trên cao kia, cúi đầu thêm nhiều lần nữa để tưởng nghĩ về Thầy, dù chúng con có ở nơi xa xôi nào nữa, được học dưới sự hướng dẫn của Thầy, được thấu đượm lời Phật truyền qua cách dạy của Thầy, chúng con chỉ biết ngưỡng nguyện báo ơn Thầy qua tâm trí, làm được gì chút chút cho người chưa biết Phật pháp thì cố gắng làm, và giữ trọn hình ảnh người tu “đầu tròn áo vuông” này là quý lắm rồi phải không bạch Thầy! Ngưỡng nguyện Thầy thùy từ gia lực cho chúng con thêm chân cứng đá mềm, vững vàng trong nội tâm, để chúng con cũng được “tư lương” như Thầy mà mang về cõi Phật như Thầy đã từng làm.

Kính bái biệt Thầy giáo thọ khả kính của chúng con!

Học trò Thích nữ Minh Lượng

Cựu Ni sinh khóa 3 Trường Trung cấp Phật học Bình Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4901)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7208)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4229)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4865)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5637)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6233)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3858)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5301)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5350)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13016)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567