Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiễn Biệt Thầy

23/04/202009:28(Xem: 3420)
Tiễn Biệt Thầy


ht dong chon 3

Tiễn Biệt Thầy


Con rời trường đã hơn 15 năm, thời gian ấy không quá dài nhưng đủ để thấy đời phôi phai. Học Phật, tu Phật và thực hành theo con đường giác ngộ của Phật suốt hơn 30 năm, con vẫn chưa thấm hết bài học vô thường để chuyển hóa chuyện tử biệt sanh ly. Những tưởng kho tàng giáo điển cao siêu mầu nhiệm của đức Thế Tôn có thể giúp con thôi tiếc nuối trước cảnh Thầy đi – Con ở, nhưng chuyện hồng trần tan – hợp vẫn khiến con không khỏi ngậm ngùi!

Con may mắn dự vào khóa III trường Trung cấp Phật học Nguyên Thiều, mảnh đất Thánh địa đã đào tạo nên bao thế hệ Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam. Dù chỉ học 3 năm cuối với tấm bằng tốt nghiệp chẳng phải xuất sắc gì, nhưng con luôn tự hào vì mình được đào tạo ở môi trường này, đó là những tháng ngày con trân trọng và không thể nào quên.

Ngày bước vào Tu viện Nguyên Thiều, đến 214 bộ chữ Hán con còn chưa được học làu thông, nói gì đến rừng Nho biển Hán quý thầy, quý sư lên lớp dạy mỗi ngày. Hồi đó con tệ lắm, chẳng dám cho ai biết cái dở, cái yếu kém của mình, đã dốt mà còn dấu. Để mấy tháng đầu nhập trường cứ lớ ngớ, ngẩn ngơ, con phần con, chữ Hán phần chữ Hán. Căng thẳng và lo lắng nhất là mỗi giờ lên lớp của cố Hòa thượng Giám luật, nào là Bách Pháp Minh Môn, nào là Phật Thừa Tông Yếu Luận,… Môn nào cũng chỉ toàn chữ Nho là Nho. Sợ nhất là mỗi lần dò bài, nếu không thuộc, không dịch được, không viết được chữ Hán, lại phải ngại ngùng trước cả trăm huynh đệ bên dưới. Thật hỗ thẹn lắm thay!

Trong rất nhiều bộ môn học toàn chữ Hán, ngoài các môn học của cố Hòa thượng Giám luật ra, còn lại một môn chúng con cũng ơn ớn khi học, đó là các bộ luật của cố Hòa thượng chùa Bình An. Hình như từ khi bước vô trường, Người chưa bao giờ dạy chúng con ngày nào bằng Việt ngữ, cứ sách chữ Hán, âm trước nghĩa sau, cầm đọc ro ro như người bản xứ. Suốt ba năm trời được đào luyện các bộ Kinh, Luật, Luận bằng chữ Hán, quý Ngài đã phần nào giúp chúng con xóa được nạn mù chữ Hán thâm căn.

Lưu lại Bình Định suốt 3 năm dài tu học, con mang ơn Ban giám hiệu trường, mang ơn quý giáo thọ sư, mang ơn quý Ni sư quản chúng, mang ơn chư huynh đệ thân thương, đã luôn bảo bọc, chở che, nâng đỡ và dạy dỗ để vun bồi giới thân huệ mang cho con. Tuy nhiên, tận sâu trong tâm khảm lòng mình, có 3 vị thầy luôn khiến trái tim con kính thương và ngưỡng mộ; cố Hòa thượng Giám Luật, cố Hòa thượng Thích Đồng Tịnh và cố Hòa thượng chùa Bình An. Xin cho phép con được gọi như vậy vì thật sự có dùng những mỹ từ cao siêu hơn thì với con những gì giản dị nhất vẫn là những gì tôn kính nhất.

Ngày cố Hòa thượng Giám Luật và cố Hòa thượng Thích Đồng Tịnh quảy dép về Tây, một cảm giác tiếc nuối và kính thương dâng ngập cõi lòng. Có điều gì đó mất mát và không nở mà chẳng diễn tả được thành câu. Đến khi hay tin cố Hòa thượng chùa Bình An thuận thế về bên Phật, nỗi mất mát ấy như vụn vỡ trong lòng. Những vị thầy, những vị ân sư mà con từng kính ngưỡng, từng tôn thờ đã thật sự rời bỏ chúng con mà đi. Trên đời, có những sự mất mát rất khó lòng bù đắp!

Kính lạy Giác linh Thầy!

Thế là từ nay vĩnh biệt, thế là biển chữ Hán mênh mong không còn được tiếp tục với bao thế hệ học trò như trước kia. Ngày tiễn biệt thầy, chúng con cũng chẳng có mặt để tiễn đưa, cuộc đời đôi khi không như mình mong đợi. Nhưng thầy ơi, những giờ lên lớp của thầy đối với chúng con vẫn còn sống mãi, các bộ Luật thầy giảng dạy bằng Hán ngữ vẫn được chúng con mang theo trong hành trang tu học của mình. Với ngôn từ giản dị, ánh mắt mến thương, Người luôn cho chúng con những trận cười thâm thúy, từ mẫn với chúng con những kỳ kiểm tra, những khi dò bài chẳng thuộc, những đoạn dịch chẳng trôi câu. Người sợ chúng con đường tu không trọn, gió chướng quật ngã nên khuyên răn bằng những ngôn từ chất phác, bình dị nhất. Chỉ bấy nhiêu thôi là chúng con nhớ đến suốt đời.

Kính lạy Giác linh thầy!

“Cội tùng, từ nay đã đổ

Gốc bách, giờ đã trơ cành

Bậc Đống lương, về cõi an lành

Đấng Long tượng, nghìn thu cách biệt”

Hơn 15 năm qua, con từ giả ngôi trường Phật học thân thương, miệt mài trên con đường lý tưởng của mình. Con ít về thăm trường, hiếm khi giao lưu cùng huynh đệ trong khóa. Con biết mình chưa hoàn hảo, nhưng con đang cố gắng từng ngày để hoàn thiện bản thân, để làm được điều gì đó hữu ích cho cộng đồng, xã hội và cho Phật giáo Việt Nam. Tất cả những gì con làm để tốt đời, đẹp đạo hôm nay, chỉ mong đền đáp chút ân tình mà Thầy và chư vị Giáo thọ sư đã dày công dạy dỗ con trong bước đầu học Phật.

Giới luật tinh nghiêm, công hạnh tròn đầy, chắc chắn giờ này Thầy đang ở cảnh giới an lành nào đó. Chỉ mong ở trên cao xa kia, Thầy luôn gia hộ cho chúng con, những đứa học trò lâu lâu ương bướng, thường thường dễ thương của Thầy luôn được thuận duyên trên bước đường tu đạo và hành đạo, mong được nối nghiệp quý Ngài trong việc “hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bổn hoài” trong muôn một.

Tưởng nhớ đến Thầy, con kính ghi vài dòng tiễn biệt. Ngàn sau dẫu có phai màu, thế gian này vẫn còn lưu dấu, có một đứa học trò từ miền Nam, nhập học muộn, trình độ bình thường nhưng luôn hướng về Thầy cả bằng trái tim chân thành nhất.

Học trò cũ của Thầy. Kính tri ân!

Thích Nữ Nhuận Bình

Cựu Ni sinh khóa III, Trường TCPH Nguyên Thiều, Bình Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4896)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 4908)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7234)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4243)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4876)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5646)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6251)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3865)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5304)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5360)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567