Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bóng Hạc Về Tây (Thành kính tưởng niệm HT Thích Đồng Chơn)

14/04/202019:28(Xem: 2996)
Bóng Hạc Về Tây (Thành kính tưởng niệm HT Thích Đồng Chơn)

Giòng sinh diệt miên viễn mãi tuôn về biển cả chân thường, nghiệp thức bốc hơi, làm mây vô định, duyên đủ đầy hiện tướng nhân sinh!.

Giáo sử Phật giáo Việt Nam hàng ngàn năm qua xuất hiện bao nhiêu nhân tài thạch trụ cho ngôi nhà chánh pháp; lưu lại trên sử sách, tồn đọng qua nhân cách hằn sâu trong tâm tư của môn đồ pháp lữ. Những gót chân của các bậc chân đức khai mở Phật pháp phương Nam. Vâng, từ thuở ấy, Trung tâm Luy Lâu nở hoa, ngàn vạn gót sen rải khắp, mở đầu Trúc Lâm chánh giáo; Lâm Tế ẩn mình trong rừng Thiền tâm chứng, qua bao đời Thạch trụ sơn môn “dĩ tâm truyền tâm”, làm giềng mối duy trì Tông pháp. Thạnh suy là áng mây trôi, tán tụ là dòng sinh diệt. Những thời khắc biến tướng, Lâm Tế tông lại mang lông vũ niệm Phật, có đôi lúc biến thành “Ứng phú đạo tràng” để dung nhiếp đối cơ hạ liệt. Thủ thuật la hét đánh đập một thời thịnh vượng, dụng các phương tiện đánh hét của vị khai tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền. để sau biến tướng công án thoại đầu. Đến thế kỷ XII, Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo – vị Thiền sư xuất sắc nhất thời kỳ này, đã hình thành và phát triển lối tu tập Thiền công án. Thời kỳ nhà Tống ra đời tập công án nổi danh Vô Môn Quan, cũng như tập Bích Nham Lục của Viên Ngộ Khắc Cần và Bức Thập Mục Ngưu Đồ của Khuếch Am Sư Viễn.

Thoại đầu biến thành cương lĩnh của Thiền viện Thiền tông, cứ thế, mỗi giai đoạn, hành giả mỗi biến tấu pháp hành tương thích tự tánh, Lâm Tế chỉ còn là chiếc vỏ truyền thừa của dòng sinh mệnh tông môn. Thiền sư đôi khi là Tịnh độ sư, Tịnh độ sư nâng nghi tình “ai là người niệm Phật” lên thành công án! Nhật Bản cũng thế, Lâm Tế tông chia nhánh cho thích ứng căn cơ đương đại, dẫu sao vẫn còn giữ nguyên chất Lâm Tế khi mà Trung quốc, Việt Nam bị pha loãng giữa dòng liên lũy trùng  phùng. Qua Hàn Quốc  có danh xưng Tào Khê thấp thoáng dáng dấp của “Công án” và “Tịnh độ”, nhưng chưa đánh mất hương vị Thiền chất uyên nguyên để kiến tánh.

Từ thuở tông Lâm Tế được vào Việt Nam truyền giới đàn của các chúa Nguyễn. người truyền bá tư tưởng triết lý Tông Lâm Tế sâu rộng nhất là Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung đã sản sinh ra Thiền sư Liễu Quán là một vị Thiền sư xuất sắc và ngộ đạo thông qua việc Tham công án – một hình thức tu tập đặc trưng và cốt lõi của Thiền phái Lâm Tế. Ngoài ra cũng có Thiền sư Thạch Liêm thuộc Tông Tào Động cũng truyền bá và giới thiệu phương pháp Thiền Thoại Đầu, công án.

 Qua bao thế hệ đổi dạng thay hình, dưới mái Thiền môn Phật Việt cũng không còn thuần chất Lâm Tế nguyên thủy, nhưng không vì thế mà sen và súng dị biệt.

                                                 ***

Phật giáo bén rễ sâu vào mãnh đất từ Thuận Hóa vào Nam; Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam, Thừa Thiên…mang hình thái đặc thù trong chốn Già Lam, tuyệt nhiên Tông phong Lâm Tế chỉ còn trên danh nghĩa truyền thừa mà môn sinh không còn “kiến tánh” được ấn chứng.

Ấy thế, ai bảo các trưởng tử Như Lai không có nội lực hành trì? Các bậc chân tu, nếu không là cao Tăng thạc đức thì cũng là ánh nhiên đăng tiếp Tăng độ chúng với thân giáo và tâm hành. Bình Định là vùng đất không màu mỡ về kinh tế, nhưng thấm đẫm đức tin tâm linh qua bao đời trầm lắng thịnh suy quốc mệnh. Huế  nổi danh một Báo Quốc, Khánh Hòa có Hải Đức thì Bình Định cũng là nơi cung ứng cho Phật giáo bao Tăng tài uy đức xuất thân từ Nguyên Thiều.

Bình Định từng có một quốc sư Thích Phước Huệ, Hòa thượng Thích Giác Tánh, thì hiện đại thấp thoáng bóng chân sư nghiêm trì luật nghi tỏa uy đức bảo tồn pháp mạch, thị hiện 74 năm hành hóa tiếp dẫn hậu lai, Tăng tài đào tạo; từng là giáo thọ sư  qua bao lớp học Tăng học Ni đương đại. Hậu học tôn kính Hòa thượng thượng Đồng hạ Chơn như một minh sư khả ái. Tên tuổi ngài gắn liền không những vùng trời Bình Định, còn rạng danh vào hàng thạch trụ Phật giáo.


ht dong chon 2

Duyên bồi đắp giáo pháp qua các minh sư, tiếp học lý pháp qua các trường Phật học; chương trình Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học của Phật Học Đường Phước Huệ tổ chức tại Tổ Đình Thập Tháp Bình Định ngài từng tham cầu; từng vào Nam bồi dưỡng thế học.

Hòa thượng nhận được văn bằng tốt nghiệp Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học và được trúng tuyển vào Cao Đẳng Phật Học Viện Trung Phần, Hải Đức – Nha Trang tỉnh Khánh Hòa năm 1974. Ngài không ngại xa xôi, tự đạp xe trên 10km đến chùa Long Khánh, Quy Nhơn để cầu kiến những bộ kinh Đại thừa Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Lăng Già Tâm Ấn…từ các cao Tăng  bác lãm.

Suốt một đời chuyên tâm tu học và hành trì, Ngài luôn  tâm niệm  lời dạy của cố HT Đổng Minh – người xuất gia khi tuổi còn trẻ, phải dành tất cả cho việc học, lúc tuổi cao hơn, nên để tâm hành trì. Có học và có tu mới hoàn thành con đường xuất gia được, vì thế, bổn phận của người xuất gia là Học cho đến cùng và Tu cho đến chốn.

Qua bao thời khắc thạnh suy của thời cuộc, qua bao gian khó trong ngôi nhà Pháp bảo, ngài không bao giờ bê trễ việc hành trì; thân giáo luôn đồng hành khẩu giáo là gương sáng cho đàn hậu học; hạnh khiêm cung, kính trên nhường dưới phải chăng là hạnh của một cao Tăng! Ngài được truyền trao tinh yếu từ các bậc Cao Tăng Thạc Đức, trong đó có Hòa thượng Huyền Ấn và Hòa thượng Bình Chánh nên Ngài luôn tạo duyên trao truyền Luật Học cho thế hệ Tăng Ni trẻ.

Bản thân đã là thế, nhưng nào quên trọng trách tiếp dẫn hậu lai khi mà cuộc sống còn vây quanh bao “nhiêu khê” bế tắt; dẫn dắt đồ chúng áp dụng nông thiền của Tổ Bá Trượng song hành việc học gia giáo; Thầy Thị Quả và Thầy Đồng Văn là học Tăng đầu tiên của lớp gia giáo, nay hình thành Tăng sai nhận nhiệm vụ trong và ngoài nước. Đây là lúc Ngài tiếp nhận ngôi chùa Bình An sau 1975 đầy gian khó.

Với hạnh nguyện: “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, năm 1982, Hòa Thượng nhận hai vị đệ tử xuất gia đầu tiên, ban cho Pháp tự: Giác Hiệp và Giác Quảng. TT. Thích Giác Hiệp đã tốt nghiệp khóa III Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại TP. Hồ Chi Minh, Tiến sĩ Phật học tại Đại Học Delhi, Ân Độ năm 2004, hiện đang là Ủy viên HĐTS GHPGVN, Phó trưởng Ban Phật giáo Quốc tế Trung ương, Phó Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Lào Cai, giảng viên Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, khai sơn và trụ trì chùa Hiệp Giác TP. Hồ Chí Minh. TT. Thích Giác Quảng hiện là Ủy viên Ban Nghi lễ BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trụ trì chùa Kim Long, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Có hơn 30 vị đệ tử xuất gia khác của Hòa thượng, như: TT. Thích Giác Khánh, TT. Thích Giác Hiển, ĐĐ. Thích Vạn Hương, ĐĐ. Thích Vạn Nhẫn,  v.v…ngoài ra, rất nhiều đệ tử y chỉ của Hòa thượng đã trưởng thành và hành Đạo khắp nơi trên thế giới, như:  Thượng tọa Thích Vạn Đức – Cộng Hòa Liên Bang Đức, Thượng tọa Thích Giác Tín – Úc Châu, TT. Thích Đồng Phước – Hoa Kỳ, v.v…

Dĩ nhiên, ngoài những đệ tử chân truyền, còn nhiều học Tăng học Ni thành danh cũng từ sự đào tạo tại Nguyên Thiều do Ngài xây dựng trên căn bản luật học. Với Thân Khẩu Ý giáo tròn đầy, đức hạnh thanh cao, Ngài nhiều lần được Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định cung thỉnh vào hàng Thập sư Tôn chứng cho nhiều giới đàn từ năm 2000 đến 2010 tại Bình Định, đặc biệt lên ngôi vị Giáo Thọ A-xà-lê tại Đại Giới Đàn Kế Châu (2013) và Tâm Hoàn (2017), v.v…

                                                              ***

Hạt giống nẩy nở hoa thơm trên mảnh đất khô cằn thế sự. HT Thích Đồng Chơn là một trong vài ánh sao đêm trên nền trời Trung Việt. Chồi hoa cố vươn ra trong những kẽ đất, tuy mỏng manh nhưng dẫu sao cũng góp thêm sắc màu cuộc sống, xác định cho dù thịnh suy, Phật pháp vẫn luôn có sức sống từ những chồi non thầm lặng. Dù dòng Thiền Lâm Tế Nguyên Thiều. Chúc Thánh, Liễu Quán, Gia Phổ, Thiên Thai, Tào Động…pháp mạch có gián đoạn, nhưng tông phong vẫn duy trì truyền thừa nguồn cội. Đạo lực chí nguyện có cao vời cũng không qua khỏi luật vô thường; bản mệnh thân lưu ly như Đức Bổn sư, cũng xuôi theo dòng sinh diệt nhân quả. Hòa thượng cho dù là ánh sáng giữa bầu trời đêm, hàng hậu học cũng phải chịu tâm tang qua những dòng thơ văn tưởng niệm. Lời than ai oán, ái biệt ly khổ vẫn là tiếng dế miên trường của kiếp nhân sinh, khi mà 22 tháng 3 năm 2020 là giờ khắc quyết định kết thúc một kiếp người, nhưng là niềm tin khởi đầu tốt đẹp cho một nhân lành cả đời người chuyên sâu hành trì tác duyên pháp sự của một cao Tăng. Tuy trụ thế 74 năm, hạ lạp 52 mùa Hạ, nhưng dòng sinh diệt miên viễn không thể hạn giới tâm nguyện của một bậc thánh thiện vô ngần. Tuy ngài truyền thừa tông môn Lâm Tế, nhưng thủ đắc luật học đặc thù.

Phật giáo Việt Nam nói chung, môn đồ pháp quyến nói riêng đã mất đi một bậc thạch trụ tòng lâm. Ánh quang trí tuệ của Hòa thượng vẫn được tiếp nối bất tận.

Cư sĩ MINH MẪN

14/4/2020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7157)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4205)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4827)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5595)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3820)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5247)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5324)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12962)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11532)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567