Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỷ Niệm Bên Thầy

10/04/202017:42(Xem: 2836)
Kỷ Niệm Bên Thầy

ht thich dong chon-27

Kỷ Niệm Bên Thầy


Thấm thoát mà thời gian đã trôi qua nhanh, mới đây thôi mà gần 49 ngày Thầy rời xa chúng coṇ. Cảm xúc nghẹn  ngào vẫn còn trong tim con, khó mà diễn tả được nỗi đau buồn này, nó cứ da diết mãi. Có lẽ con chưa chấp nhận sự thật là Thầy đã đi rồi. Con vẫn biết lời Thầy dặn dò lúc con mới xuất gia “Mọi sự mọi việc trên đời này luôn thay đổi, các pháp là vô thường. Cái chết là cái chắc chắn”. Các con hãy nỗ lực tiến tu để cảm thấy không bị vướng bận hay rằng buộc bất kỳ điều gì, dù đó là vui, buồn, hạnh phúc hay khổ đau. Rồi một ngày sự nỗ lực đó sẽ giúp con có được sự an nhiên, tự tại giữa Ta bà uế trược này. Con còn nhớ ngày chập chững bước chân vào chốn thiền môn, là khoảnh khắc đầu tiên con được nhìn và tiếp xúc với Thầy, với dáng hình giản dị của một Sơn Tăng mà trước giờ con cứ tưởng chỉ thấy trong các bộ phim, hay là huyền thoại cổ tícḥ. Một bậc Thầy đơn sơ, mộc mạc, ẩn chứa nội lực tu tập của vị Long Tượng chốn không môṇ. Từ cái nhìn ấy cho đến nay, con vẫn không thể nào quên được Thầy, biết bao nhiêu kỉ niệm, bao kí ức cứ dồi dạt ùa về khi đặt bút viết đôi dòng niệm ân Thầy.

Nhớ lại thuở xưa, khi còn là thị giả bên Thầy, có những lúc con hồn nhiên vô tư quên đi những lời căn dặn, để rồi bị Thầy la trách và bắt phạṭ. Khi ấy, trong tâm con cảm thấy buồn và tự nghĩ sao Thầy không thương mình, rất nhiều suy nghĩ hiện lên trong con, bởi lúc đó con còn quá trẻ, suy nghĩ có lúc nông cạn và không hiểu biết hết sự yêu thương của Thầy. Hằng ngày, Thầy luôn dạy huynh đệ chúng con nhiều điều, từ cách đi, đứng, nằm, ngồi, cách ứng xử và kể cả cách học kinh luật để hành trì… Bao nhiêu điều tốt Thầy truyền dạy cho chúng con, Thầy biết rằng: “Thân sanh là giả tạm, rồi một ngày Thầy phải rời xa chúng con, sợ chúng con chưa đủ hành trang để tiến tu và cả bước nhập thế cứu đời”. Vì thế, Thầy dày công, Thầy cố gắng dạy rất nhiều, dạy chi tiết từ thân giáo và khẩu giáo. Cho đến bây giờ, lời dạy ấy vẫn in sâu và trong tâm thức con. Thầy nói: “Tụi con còn nhỏ, cần phải học thật nhiều, đừng chạy theo thú vui bên ngoài để rồi đánh mất lý tưởng xuất gia. Người xuất gia cần phải nỗ lực học Phật và hành trì giáo Pháp chân chính, để tăng trưởng đạo tâm vững mạnh, sau này với ý chí kiên cường, với nội tâm có tu tập, các con sẽ tự tin đứng vững trong xã hội đầy cám dỗ, sẽ vượt qua nhiều thử thách chông gai trong sự nghiệp hoằng truyền giáo Pháp, sẽ là người kế thừa Như Lai hay kế thừa sự nghiệp tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức, của Thầy Tổ, các con nhớ rõ chứ”. Từ bài học đó, con luôn tâm niệm rằng đó sẽ mãi là kim chỉ nam cho con trên bước đường tu học từ đây cho đến mãi về sau.

Những lời Thầy dạy tuy đơn sơ, nhưng hàm chứa một triết lý của đạo Phật, giúp con có thêm nguồn năng lượng để cố gắng vượt thoát sự cám dỗ và đi đúng với con đường giải thoát mà chư Tổ đã đi qua. Kể từ ngày hôm ấy, Thầy giống như là ánh sáng trong con, luôn soi đường chỉ lối cho con, trong những lúc con bất chợt yếu mềm, thoái chí, cũng chính là Thầy đã luôn hiện hữu trong con dẫn con vượt qua trăm cuộc gian truân cuộc đời. Con nghĩ rằng: “Con là sự tiếp nối của Thầy, Thầy luôn hiện hữu trong con dẫu thân ngũ uẩn của Thầy đã không còn, nhưng chính lời dạy của Thầy vẫn luôn hằng sâu trong con mãi mãi”. Khi con rời xa Thầy để đi học Phật, mong muốn tương lai sẽ tiếp bước chân Thầy, nhưng nào đâu lại nghe tin Thầy bệnh phải nhập viện, tâm lý lúc đó con hoang man và lo lắng. Ấy vậy mà, chưa kịp về bên cạnh chăm sóc Thầy mà Thầy đã vội rời xa. Tin này càng làm con thêm chùng bước về con đường phía trước, nỗi buồn cứ luôn dày xé trái tim coṇ. Cái ngày cuối đời của Thầy mà con cũng không về bên cạnh Thầy được bởi vì thế giới đang gồng mình chống chọi với đại dịch Covid-19 và phong tỏa các chuyến bay nên con không có cơ hội bên Thầy lần sau cuối. Từ phương xa chỉ biết hướng tâm về Thầy, cầu nguyện cho Thầy an nhiên mà dời gót. Con biết chắc rằng với đạo tâm tu tập cả một đời của Thầy, Người sẽ an nhiên xả bỏ báo thân này, dự hàng Thánh chúng cõi Liên Hoa, tùy duyên hạnh nguyện hóa độ. Mong rằng Thầy thương tưởng chúng sanh còn chìm đắm trong u tối, phát hạnh nguyện hội nhập Ta bà để giúp chúng sanh thoát khổ ải sanh tử, đến bờ giải thoát an vui.

        Con hiểu rất rõ ngôn ngữ chỉ là thứ tạm bợ, làm sao mà diễn tả hết công ơn lớn lao của Thầy. Nhưng vì lòng thương nhớ bậc ân sư, xin phép cho con dùng chút ít ngôn ngữ để bày tỏ về bậc Thầy khả kính của chúng con. Kỉ niệm của con về Thầy rất nhiều, nhưng làm sao kể hết được Thầy ơi! Hai tiếng Thầy ơi! Mà tâm con trẻ như chết lặng giữa đêm khuya nơi xứ lạ quê người. Hai tiếng Thầy ơi! Chưa kịp nói lên mà Thầy đã vội ra đi, sẽ không còn cơ hội để bày tỏ, nhưng con sẽ giữ mãi những kỉ niệm đó cho riêng con về một người Thầy mà con hết mực tôn kínḥ. Đôi dòng kỉ niệm bên cạnh Thầy giờ sẽ gửi nó theo muôn ngàn gió mây mong rằng nó sẽ mang theo sự hồi ức của con về Thầy đến một nơi yên bình và hạnh phúc nhấṭ. Đây là kỉ niệm khó quên và chắc sẽ không bao giờ con quên được lời dạy của Thầy năm nào, từ thuở sơ cơ xuất gia của con.

 -Yangon, Kỉ niệm bên Thầy!-
0h00’, 8/4/2020 (16/3 Canh Tý)
Hiếu tử Thích Vạn Hy
Đầu thành khấp lễ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7152)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4202)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5593)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3815)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5244)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5319)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12958)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11525)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567