- Sơ Lược Tiểu Sử Đại Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH QUẢNG ĐỘ Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1928 - 2020)
- Di Huấn của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ
- Nguyên Thủy Tiều Thừa Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận (Bộ 3 tập) – Thích Quảng Độ
- Thông Tư V/v Lễ Tưởng Niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
- Úc Châu: Thông Tư V/v Tổ chức Lễ Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tại Chùa Pháp Bảo, Sydney
- Hoa Kỳ: Thông Tư Tưởng Niệm HT Thích Quảng Độ (của Giáo Hội Hoa Kỳ)
- Âu Châu: Thông Tư Lễ Truy Điệu Đức Đại Lão HT Thích Quảng Độ (của Giáo Hội Âu Châu)
- Canada: Thông Tư V/v Tổ chức Lễ Truy Tán Công Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ (của Giáo Hội Canada)
- Báo An Tường (thơ)
- Lễ Tưởng Niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ (1928-2020) tại Tu Viện Quảng Đức trưa Chủ Nhật 23/2/2020)
- Ban Tổ Chức Lễ Tang Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
- Lễ Tưởng Niệm Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ tại Chùa Pháp Hoa. Adelaide, Nam Úc
- Chiều Đông (Kính tiễn Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ) Hành trình đầy bi tráng của Thầy trong suốt 10 năm bị bắt giam, tra tấn và lưu đày cùng với bà mẹ già 90 tuổi ở Thái Bình đã để lại một niềm thương yêu và kính phục sâu xa, không những trong lòng nhiều triệu Phật Giáo đồ Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cả trong cộng đồng nhân loại.
- Hòa Thượng Thích Quảng Ba trả lời phỏng vấn SBS (Úc Châu) về sự viên tịch của HT Thích Quảng Độ
- Điện Thư Phân Ưu của Văn Phòng Điều Hợp Liên Châu
- Vần thơ tưởng niệm Đại Lão HT Thích Quảng Độ
- Nhạc phẩm: Trọn Nghĩa Ơn Thầy (do Ca Sĩ Gia Huy trình bày)
- Kính tiễn Giác Linh Thầy về cõi Phật (thơ)
- Vietnamese dissident monk who was a Nobel Prize nominee dies at 93
- Thanh Bần (thơ)
- Tiễn biệt Thầy (Kính dâng Trưởng Lão HT Thích Quảng Độ)
- Tiết tấu loài cây (Thành kính Truy Niệm GL ĐLHT thượng Quảng hạ Độ)
- Thắp Nén Hương Tâm (thơ)
- Bồ tát vô úy (Thiền sư Nhất Hạnh viết về Hòa thượng Quảng Độ)
- I paid homage to Most Venerable Thich Quang Do, The Fifth Patriarch of The Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV
- Thành tâm kính ngưỡng (Kính tiễn Giác Linh Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ về cõi Phật)
- BBC nói về Sự qua đời của Hòa Thượng Thích Quảng Độ và tương lai GHPGVNTN
- Bậc Thượng Sĩ (thơ)
- Hoa Đàm Lưu Dấu (thơ)
- Một Rừng Sao Vẫn Còn Soi Sáng (thơ)
- TT Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thích Tâm Phương về kính viếng và dự lễ tang Đức Đại Lão HT Thích Quảng Độ
- Cảm Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ viên tịch
- Tiễn một áng mây
- Tuyên bố về việc Hoà thượng Thích Quảng Độ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất qua đời
- Lời Thỉnh Cầu và Cung Tiễn Của Thất Chúng Đệ Tử dâng lên Tôn Sư Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Quảng Hạ Độ - Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
- Lạy Mẹ (Tuyển tập thơ của Ôn Quảng Độ)
- Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928 - 2020): Chân tu và trí thức
- Bồ Tát Hóa Duyên (thơ)
- Giữ Đạo mầu đau đáu nỗi niềm riêng (Vần thơ của Phật tử Thanh Phi kính cúng dường Giác Linh Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ (1928-2020)
- Video: Tang Lễ Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng Thống GHPGVNTN
- Những vần thơ của HT Thích Quảng Độ
- Dâng Mẹ (bài thơ tuyệt tác của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ)
- Bái Niệm Cung Tiễn Thầy Quảng Độ
- Người Không Sợ Khổ
- Đã Bỉ Ngạn Rồi Sao Tiếc Thương
- Thông Tư Tổ Chức Lễ Tưởng Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ của Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Hoa Kỳ
- Thông Tư Tổ Chức Lễ Tưởng Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ của Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử VN tại Hải Ngoại
- Thông Tư Tổ Chức Lễ Tưởng Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ của Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Thế Giới
- Câu đối cúng dường Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng Thượng Quảng Hạ Độ cao đăng Phật quốc
- Cung tiến tưởng niệm Cố Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Đệ Ngũ Tăng Thống thượng Quảng hạ Độ tân viên tịch Giác Linh.
- Mắt từ thương chúng sinh (Kính tiễn Giác linh Ân sư Thích Quảng Độ)
- Chúng Con Thành Kính Bái Biệt Đức Trưởng Lão Hoà Thượng thượng Quảng hạ Độ
- Chiều Đông (thơ)
- Cung Tiễn Đại Sư Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống của GHPGVN Thống Nhất
- Thần Thái Phi Phàm (bài thơ kính dâng Hòa Thượng Quảng Độ)
- Trên đỉnh Lăng Nghiêm (Kính dâng Đại Lão Hòa Thượng Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Quảng Độ)
- Thơ Trong Tù của HT Quảng Độ ( Từ ngày 06.04.1977 đến ngày 10.12.1978 (từ tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 năm Mậu Ngọ)
- Cội Tùng Trước Gió (Thành kính tưởng niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ)
- Cung kính tưởng niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ
- Nhà văn Trần Trung Đạo nói chuyện về Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ trên SBS Radio Úc Châu
- Nhắc lại một kỷ niệm để tưởng nhớ Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
- Lễ Tưởng Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tại Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
- Lễ Tưởng Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
- Bản Bi Hùng (thơ)
- Câu đối tưởng niệm kính dâng lên Giác linh Đức Tăng Thống GHPGVNTN
- Một đời hy hiến (thơ)
- Biography of The Most Venerable Thich Quang Do (1928 - 2020), the Fifth Patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam
- Thich Quang Do, Defiant Rights Champion in Vietnam, Dies at 91
- Lễ Tưởng Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ tại Chùa An Lạc, San Jose, Hoa Kỳ
- Lễ Truy Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ tại Chùa Ấn Quang, Victoria, Úc Châu
- Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu sẽ tổ chức Lễ Tưởng Niêm Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
- Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ trả lời cuộc phỏng vấn bí mật do Diễn Đàn Tự Do Oslo, một diễn đàn cho Nhân Quyền, thực hiện.
- Lễ Truy Niệm Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ tại Đền Thờ Quốc Tổ, Sunshine, Victoria, Úc Châu (do Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu tổ chức tối Thứ Bảy, 14/3/2020)
- Thông Báo Thay Đổi Chương Trình Lễ Tưởng Niệm và Hải táng xá lợi Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ (tại Chùa Từ Hiếu, Sài Gòn)
- Một Vì Sao đã khuất (Thành tưởng niệm tuần chung thất Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ)
- Còn gì cho Thầy (Thành kính tưởng niệm HT Thích Quảng Độ)
- Thầy Quảng Độ hết lòng, hết dạ cho Đạo pháp (bài mới của Tỷ khưu Thích Thái Hòa)
- Tổng hợp hình trong 7 tuần thất của Trưởng lão Thích Quảng Độ, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN
- Cảm Niệm Ân Sư (bài của HT Thích Tuệ Sỹ đọc trong lễ Tưởng Niệm Chung Thất Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ)
- Di Ngôn - Lễ Tưởng Niệm Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Ngày 18-04-2020
- Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phụng thừa ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, lãnh đạo Giáo Hội PGVN Thống Nhất
- Lời Trình Bạch trong Lễ Thỉnh Xá Lợi Của Đức Tăng Thống - Hải Táng
- Lễ Tưởng Niệm HT Thích Quảng Độ tại Sydney Chùa Pháp Bảo Úc Châu.
- Lễ Tưởng Niệm Bách Nhật Đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN (31/5/2020)
- HT Thích Thái Hòa trả lời phỏng vấn VOA về Lễ Bách Nhật của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ
- Thông Bạch V/v Tưởng niệm lễ Tiểu Tường của đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN
- Thông Bạch về Lễ Đại Tường Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ
TỰ THUẬT
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Thân ta trong chốn lao tù
Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ
Bao trùm khắp cõi hư vô
Lao tù đâu thể nhiễm ô tâm này
Mặc cho thế sự vần xoay
Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được nào
Ngọc thiêu màu thắm biết bao (*)
Sương càng phủ trắng tùng cao ngất trời
Trăng tròn khuyết biển đầy vơi
Mây bay gió thoảng cuộc đời sợ chi!
(*) Lấy ý trong câu: “Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận” của Thiền sư Ngộ Ấn, đời Lý.
Đại ý: viên ngọc ở trên núi bị đốt màu sắc vẫn tươi thắm.
ÁC MỘNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Vào một đêm trời không trăng sao bóng tối ngập tràn
Tôi bắt đầu cuộc hành trình từ đó luân hồi mấy độ
Lang thang khắp nẻo mịt mù
Lần mò quờ quạng trong kiếp sống phù du
Không gian tôi thở toàn mùi tử khí
Chặng đường tôi đi xương trắng ngổn ngang
Những vũng máu từ nghìn xưa còn đọng lại
Bên những thành quách hoang tàn
Chắc hẳn nơi đây là chiến địa, nơi đây là trần gian
Rồi băng qua một miền đất lạnh
Bát ngát mênh mông gió thổi vù vù
Tôi thấy những nấm mồ nằm la liệt
Giữa những đám cỏ úa vàng đìu hiu quạnh quẽ
Và qua đốm lửa lập lòe trên những tấm bia tôi nhìn rõ
Từ các Đế vương đến những người cùng khổ
Tất cả chỉ còn lại nắm xương tàn
Chắc hẳn nơi đây là nghĩa địa, nơi đây là trần gian
Tiếp tục cuộc hành trình tôi đi sâu vào một vùng u tịch
Tường cao cửa kín bóng tối dày đặc đượm mùi hôi tanh
Những dẫy nhà màu xám chìm trong im lặng
Và dưới ánh đèn ma trơi tôi nhìn ra những cảnh tượng hãi hùng
Tôi thấy những người mà không ra người nhưng giống đười ươi
Nằm trong gọng cùm xiềng xích cũi sắt kẹp kìm trên tường
Tôi thấy những vết máu đào loang lổ
Trông như những con vật không đầu hay những hình thù ma quái
Mặt ngựa đầu trâu phồng mang trợn mắt
Như muốn ăn tươi nuốt sống khách bàng quan
Và từ đâu đây vọng lại tiếng kêu cầu cứu thất thanh
Tiếng rên la quằn quại và những tiếng kêu “oan”
Chắc hẳn nơi đây là địa ngục nơi đây là trần gian
Tôi bàng hoàng sực tỉnh cơn ác mộng vừa tàn
Nhìn ra ngoài đầy trời trăng sao và vui mừng
Tôi reo lên:
Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!
Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!
Sa Môn Thích Quảng Độ
MƠ ƯỚC NGÀY VỀ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Ngày trở về đường tôi đi thênh thang rộng mở
Ánh nắng chan hòa mùa xuân tươi sáng
Và đầy vườn hoa nở chim ca
Gió thổi vi vu nghìn khúc nhạc hòa
Qua những hàng cây sum suê trải dài bóng mát
Thoang thoảng không gian một mùi thơm ngát
Của hương trời lá thắm cỏ non
Khắp nẻo đường tôi đi
Những tà áo xinh tươi vờn theo ngọn gió
Dưới nắng vàng cành liễu thiết tha
Tiếng cười vui vang lên từ khắp mọi nhà
Hòa lẫn tiếng trẻ thơ ê a tập
Mọi người nhìn nhau qua ánh mắt
Của tình người của trìu mến thiết tha
Sau hàng phượng vĩ dưới mái trường xưa
Thầy trò hoan ca ngày mở Hội
Thôi hết rồi những năm dài tăm tối
Sống đọa đày tủi nhục lầm than
Những năm dài áp bức bạo tàn
Đã vĩnh viễn chôn vùi trong dĩ vãng
Đất nước hôm nay muôn màu rực sáng
Đời tự do hoa nở thắm tươi
Hạnh phúc trên môi hé nở nụ cười
Như chào đón một mùa xuân bất tận
Thôi hết rồi những tháng năm thù hận
Tình thương yêu mở lối tương lai
Người với người tay trong tay
Cùng ước mơ xây dựng ngày mai
Trong thanh bình ấm no hạnh phúc
Cùng điểm tô non sông gấm vóc
Sáng đẹp muôn đời Tổ Quốc Việt Nam!
Sa Môn Thích Quảng Độ
ĐÊM PHẬT ĐẢN
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm Phật Đản ánh trăng rằm huyền ảo
Khắp không gian như tỏa ngát mùi hương
Tinh tú ba nghìn tụ lại một phương
Để chào đón đấng Siêu nhiên xuất thế
Nơi ngục thất tôi nhìn vào hiện thể
Khắp quanh tôi tràn ngập bóng vô minh
Từ xa xưa vì nghiệp lực chúng sinh
Đã tạo dựng nhân gian thành địa ngục
Tôi cười vang trong đêm trường u tịch
Bốn bức xà lim như sụp đổ dưới chân tôi
Ôi đau thương đây thế giới Sa Bà
Cực Lạc Niết Bàn cũng là đây hiện thực
Ánh Đạo rọi giữa lòng tôi sáng rực
Bao ưu phiền trút sạch tựa mây tan
Kia gông cùm xiềng xích cảnh trần gian
Trong khoảnh khắc cháy tan thành tro bụi
Tôi vận dụng sức "hiện tiền Tam muội"
Ngồi an nhiên như sen nở giữa than hồng
Thời gian trôi lặng lẽ đã hừng đông
Tôi bừng tỉnh thấy bình minh ló rạng
Thế giới ngày mai mùa xuân tươi sáng
Đạo từ bi nhuần thấm khắp năm châu.
15.4 Đinh Tỵ (1977)
Sa Môn Thích Quảng Độ
ĐÊM XUẤT GIA
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm nay kinh thành Tỳ la yên lặng
Mảnh trăng thượng tuần vừa khuất sau đồi
Khung trời mờ ảo ngàn sao tỏa ánh lung linh
Sóng Nô-ma cuồn cuộn chuyển mình
Gió Hy-mã ào ào rung động
Vạn vật đã chìm sâu trong mộng
Từ không trung tiếng vọng ngân xa
Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!
Giờ đã điểm, Ngài hãy ra đi tìm chân lý
Vì muôn loại sầu đau từ vạn kỷ
Đang đợi chờ và kỳ vọng thiết tha
Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!
Ngài có nghe chăng tiếng khóc than đang vang lên từ khắp mọi nhà
Vì những khổ đau của sống già bệnh chết
Tử biệt sinh ly đói nghèo rách nát
Áp bức đọa đày bởi hận thù và tham vọng cuồng si
Tất cả trông chờ một chuyến ra đi
Một chuyến đi hùng tráng
Niềm ước mơ ở những ngày mai tươi sáng
Chỉ còn đêm nay thôi đừng tiếc chi
Tất Đạt Đa ơi Ngài hãy ra đi
Vì tất cả theo tiếng gọi đêm nay
Hỡi sóng Nô ma và gió ngàn Hy mã
Hãy gào to lên cho tiếng vọng vang xa
Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!
Giờ đã diểm thôi đừng tiếc chi
Cung điện ngọc ngà với Da Du và La Hầu La yêu quí
Ngài hãy ra đi vì muôn loại sầu đau từ vạn kỷ
Đang đợi chờ và kỳ vọng thiết tha
Tỳ la! Tỳ la! Ôi kinh thành hoa lệ
Thôi đừng buồn chi
Ngài ra đi cho muôn vàn thế hệ
Ngài ra đi vì tiếng gọi khổ đau
Của ngàn nay đến ngàn sau
Và sẽ trở về trong một ngày hào quang rực sáng
Tất cả kinh thành rồi sẽ rơi vào quên lãng
Nhưng hào quang Ngài sẽ sáng mãi với thời gian.
8.2 Mậu Ngọ (1978)
Sa Môn Thích Quảng Độ
ĐÊM THÀNH ĐẠO
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Qua cửa gió xà lim vắng lạnh
Tôi đứng nhìn say đắm ánh sao mai
Tỏa lung linh sáng rực dưới vòm trời
Như báo hiệu bình minh đang trổi dậy
Sắp hết rồi ôi đêm dài tăm tối
Đang trùm lên cảnh vật một màu đen
Tôi im lặng hồi tưởng lại một đêm
Cùng giờ này hơn hai nghìn năm trăm năm trước
Dưới cội Bồ đề mặt đất chuyển rung
Như hoan ca chào đón đấng Đại Hùng
Vừa chiến thắng ma quân lần cuối
Ánh Đạo vàng bừng lên chói lọi
Đốt tiêu tan màn hắc ám vô minh
Những khổ đau thù hận ngục hình
Đã vây hãm chúng sinh từ muôn thuở
Tất cả, tất cả trong tôi đang thiêu hủy
Với tham sân và cuồng vọng si mê
Ánh sáng chan hòa trên nẻo đường về
Suốt cuộc đời hôm nay tôi thấy sao mai đẹp nhất
Xin cảm tạ hồng ân Đức Phật
Đã cho con giờ phút hôm nay
Giờ phút thiêng liêng Thành Đạo của Ngài
Con tin tưởng sẽ đi vào dòng thời gian bất tận
Bao sự nghiệp huy hoàng xây trên thù hận
Từ ngàn xưa dấu vết phủ rêu xanh.
18.12 Mậu Ngọ (1978)
Sa Môn Thích Quảng Độ
PHÁP ÂM BẤT TUYỆT
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Trên đỉnh núi Tu Di
Vào một đêm trăng huyền ảo
Tôi đứng nhìn vũ trụ bao la
Giữa khoảng thái hư vô cùng tận
Tôi thấy hằng triệu triệu thiên hà
Khắp trong ba nghìn đại thiên thế giới
Từ những tinh cầu âm vang vọng tới
Tôi nghe tiếng nhạc mầu nhiệm tuyệt vời
Và tràn đầy không gian mùi hương trời kỳ diệu
Trên mặt đại dương ánh trăng phản chiếu
Lung linh ngời sáng trông như biển ngọc lưu ly
Và trên những bãi cát vàng ánh trăng trải dài bát ngát
Như những tấm thảm khổng lồ dệt bằng muôn ức triệu hạt kim sa
Rồi đưa mắt nhìn quanh thế giới Sa bà
Trên mặt địa cầu tôi thấy đỉnh núi Linh sơn
Đang chìm trong những giây phút thần bí
Từ trời Đao lị đến cung Dạ ma
Từ cõi Phi phi tưởng đến cung Đâu suất đà
Và từ nhiều cõi khác số lượng hằng sa
Tôi thấy tất cả Trời, Rồng, A tu la
Đêm nay đều đến đây tụ hội
Để nghe pháp âm của Phật thuở nào
Đang còn vang dội khắp núi rừng tịch mịch thâm u
Thời gian như ngừng đọng lại, sát na là khoảng thiên thu
Linh sơn đêm nay là Linh sơn trong quá khứ xa xưa
Và trên tòa sư tử nguy nga
Tôi thấy Đức Phật tay cầm liên hoa
Trong một phút giây kỳ tuyệt khai thị diệu pháp Thượng thừa
Giữa vô lượng Thiên long Thánh chúng
Im lặng bao trùm đại chúng
Tôi chỉ thấy Ca Diếp Tôn giả mỉm cười nụ cười thần bí
Cũng như Linh sơn thần bí đêm nay rồi sau này
Vẫn tại nơi đây một triệu năm trăm nghìn năm tới
Khi Bồ tát Di Lặc ra đời
Linh sơn sẽ là đạo tràng của Long hoa pháp hội
Ôi! Huyền nhiệm làm sao núi rừng hùng vĩ Linh sơn
Đời đời vang dội DÒNG PHÁP ÂM BẤT TUYỆT.
Xuân Mậu Ngọ (1978)
(15 tháng 2 kỷ niệm Đức Phật Nhập Diệt)
Sa Môn Thích Quảng Độ
NHẬP THỂ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm nay không trăng tôi nhìn bầu trời đen thẫm
Từ các tinh cầu xa xăm
Muôn nghìn ánh mắt long lanh nhìn tôi đăm đăm
Như âm thầm mời gọi hãy trở về vũ trụ bao la
Tôi say sưa nhìn giải Ngân hà
Những cánh buồm sao lấp lánh đang đợi chờ
Đưa tôi về bến cũ xa xưa
Tôi nhớ lại từ kiếp sơ
Khi vũ trụ sinh thành tôi là một phần bản thể
Vì “nhất niệm si mê » nên dòng sông Ngân chia cách đôi bờ
Trôi giạt nổi chìm
Hôm nay tôi trở về nhập thể
Ôi! Sung sướng biết bao từ thuở nào
Giờ đây thuyền neo bến cũ và hết rồi những ngày tháng lao đao
Những ánh mắt long lanh vẫn nhìn tôi trìu mến
Như hân hoan chào đón lữ hành sau những năm dài lưu lạc
Nay trở lại quê hương nhưng còn ngờ ngợ qua lớp áo phong sương
Những ánh mắt nhìn tôi thật kỹ
Và cuối cùng đã nhận ra tôi vẫn là người xưa tri kỷ
Chẳng phải khách tha phương
Khi ra đi, MÊ-GIÁC đôi đường
Giờ trở lại, GIÁC-MÊ là một
Ra đi mê, giác đôi đường
Giờ đây trở lại, một đường giác mê.
Sa Môn Thích Quảng Độ
SỐNG CHẾT
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Mưỡu
Đời người như một giấc mơ
Tỉnh ra mái tóc bạc phơ trên đầu
Tuyệt mù xanh thẳm ngàn dâu
Gió tung cát bụi tìm đâu lối về
Nói
Sống là thực hay là ảo mộng
Chết đau buồn hay chính thật yên vui
Cứ hằng đêm tôi nghĩ mãi không thôi
Chẳng biết nữa, mình sống hay là chết
Hoàng lương nhất mộng phù du kiếp
Sinh tử bi hoan thục giác tri? (1)
Sống với chết là cái chi chi
Lý huyền nhiệm nghìn xưa mấy ai từng biết?
Có lẽ sống cũng là đang chết
Bởi sống trong tôi mà chết cũng trong tôi
Chết đeo mang từ lúc thai phôi
Nào đâu phải đến nấm mồ mới chết
Vì lẽ ấy, sống tôi không sợ chết
Cứ thung dung sống chết từng giây
Nhìn cuộc đời sương tuyết khói mây
Lòng thanh thản như chim hoa người gỗ (2)
Giữa biển trầm luân gió dồi sóng vỗ
Thân tùng kia xanh ngất tầng cao
Sống với chết nào khác chiêm bao
Lý “nhất-dị” là hào quang bất diệt
Cũng có lẽ chết hẳn rồi mới biết
Sống đau buồn mà chết thật yên vui
Xin đừng sợ chết ai ơi!
Sa Môn Thích Quảng Độ
* Đại ý đời người cũng như giấc mộng kê vàng, như kiếp phù du sớm còn tối mất. Sống, chết, là buồn hay vui? Ai biết được?
Mộc nhân thị hoa điểu: Người gỗ ngắm chim hoa (chữ trong Thiền lâm bảo huấn)
ĐÊM MƯA NGHE TRẺ KHÓC (*)
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm khuya rồi trời mưa gió lạnh
Bé thơ ôi hãy ngủ ngon đi
Và đừng khóc nữa bé biết không
Tôi đang âm thầm đứng bên khung cửa
Lắng nghe bé khóc trong mưa và tự hỏi lòng mình
Tại sao bé khóc?
Nơi đây bé đang nằm trong nhà tù của Việt Nam anh hùng quang vinh độc lập
Bé được chào đời vào những ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no
Rồi mai này bé sẽ là « cháu ngoan Bác Hồ”
Và được học những lời vàng ngọc
“Không có gì quí hơn độc lập tự do”
Bé biết không, đó là niềm vinh hạnh rất to
Mà hôm nay, vì còn thơ ngây bé chưa hiểu nổi
Niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội
Khi bé lớn lên tới tuổi thành niên
Cùng với hàng vạn bạn trẻ đồng trang
Bé sẽ được “Đảng ta » đào tạo luyện rèn
Để xứng đáng là thanh niên của thế hệ “Hồ Chí Minh” vĩ đại
Rồi noi gương Bác, bé sẽ không chối từ ngần ngại
Hiến cả đời mình cho sự nghiệp “giải phóng loài người”
Ôi! Vinh dự làm sao và tự hào biết mấy
Một sứ mệnh cao cả thiêng liêng
Thôi nhé bé thơ ôi đêm khuya lắm rồi và mưa vẫn còn rơi
Hãy ngủ cho ngon đừng khóc nữa
Tương lai của bé “tươi đẹp sáng ngời”.
Sa Môn Thích Quảng Độ.
(*) Mẹ bé đi vượt biên bị bắt và sinh bé trong tù
TRỜI ĐÃ SÁNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Vào một buổi chiều mưa
Trời nhà tù buồn thảm
Như ngày ba mươi tháng tư
Năm bảy mươi lăm lịch sử qua rồi
Bên cửa sắt xà lim tăm tối
Tôi đứng nhìn những giọt mưa rơi
Từ mái nhà đổ xuống lênh láng chan hòa
Trông như những dòng nước mắt của muôn vạn người dân vô tội
Đã chảy ra khi trải qua một cuộc đổi đời
Gió rít từng cơn, mưa tuôn càng mạnh
Lòng trống lạnh bồi hồi
Tôi nhìn quanh tôi bốn bức tường dày đặc
Bóng tối phủ đầy
Rồi đưa mắt nhìn ra phía chân trời
Tôi tìm trong tưởng tượng một nơi trú ẩn sáng tươi
Nhưng hoàn toàn mờ mịt cũng như xà lim tăm tối của tôi
Miền Nam ôi!
Tôi thầm gọi, đây là miền Nam trong căn phòng giam chật hẹp âm u
Ngoài kia là miền Nam trong một nhà tù rộng lớn
Còn có nơi nào yên ổn xin chỉ cho tôi ẩn trốn
Hỡi miền Nam thương mến của tôi ơi!
Đêm xuống rồi và mưa đã ngừng rơi
Sau hồi kiểng hiệu vang lên
Toàn khu nhà tù chìm vào yên lặng
Yên lặng như một nấm mồ hoang vắng
Giữa miền cát trắng bao la và nằm trong căn nhà mồ
Tôi không thấy gì nữa cả trừ những bóng ma (vai mang khẩu súng AK)
Thỉnh thoảng chập chờn qua gang cửa gió (*)
Đêm khuya đã đưa tôi vào giấc ngủ
Một giấc ngủ thật ngon
Thời gian lặng lẽ trôi theo định luật vô thường
Và mơ màng tôi nghe đâu đây tiếng chim hót véo von
Tôi choàng dậy
Ô kìa! Thì ra trời đã sáng
Từ phương đông vừng thái dương hiện lên chói rạng
Mở đầu một ngày rực rỡ ánh hào quang.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Trên tấm cửa sắt của xà lim, người ta để một cái lỗ nhỏ vừa bằng bàn tay để đưa thức ăn qua, gọi là cửa gió.
DÂNG MẸ
(Sa Môn Thích Quảng Độ)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương
Con nhớ Mẹ suốt canh trường khắc khoải
Ơn dưỡng dục Mẹ ơi sao xiết kể
Công sinh thành con nghĩ quặn lòng đau
Khóm mai già xơ xác đã từ lâu
Trơ vơ đứng giữa trường đời gió lộng
Dòng sông chảy ấy đời con trong mộng
Lững lờ trôi trôi mãi đến bao giờ
Có những đêm con thiêm thiếp trong mơ
Con mơ thấy hồn con về thăm Mẹ
Được ấp ủ trong tình thương của Mẹ
Mảnh hồn con ấm dịu biết bao nhiêu
Bốn phương trời con tìm kiếm đã nhiều
Nhưng không có một tình yêu của Mẹ
Vu Lan đến cõi lòng con quạnh quẽ
Bóng người xưa như phảng phất đâu đây
Một chiều thu lạnh dâng bát cơm đầy
Tình nghĩa ấy Mẹ ôi bao thấm thía
Phương trời này con ngậm ngùi rơi lệ
Đức cù lao muôn một trả chưa xong.
Vu Lan Nhâm Dần (1962)
Sa Môn Thích Quảng Độ.
LẠY MẸ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Hơn hai mươi bảy năm trời cách biệt
Mắt Mẹ đã mờ vì nhớ thương con
Mẹ trông chờ bao ngày tháng mỏi mòn
Nhưng chỉ thấy mây bay và gió thoảng
Mẹ có ngờ đâu đời con phiêu lãng
Như cánh chim trời xiêu bạt bốn phương
Để giờ đây trong cảnh ngộ đau thương
Cảnh tù ngục tối tăm và buồn thảm
Con hối hận từ đáy sâu tâm khảm
Đạo thần hôn (*) đã lỗi phận làm con
Tám mươi tuổi Mẹ có còn mạnh khỏe
Hay hạc vàng đã cất cánh bay cao
Cứ đêm đêm theo dõi những vì sao
Nhìn Bắc đẩu con tuôn trào nước mắt
Con quỳ xuống chắp hai tay trước ngực:
"Lạy Đức Từ Bi cứu độ Mẫu thân
Cõi Sa bà khi Mẹ đã mãn phần
Cảnh Cực lạc là quê hương An Dưỡng"
Lòng chí thành nguyện cầu trong tâm tưởng
Tháng năm dài con chỉ biết thế thôi
Nghĩa thù ân chua xót lắm Mẹ ôi
Con lạy Mẹ trăm nghìn muôn ức lạy!
Sa Môn Thích Quảng Độ.
(*) Thần hôn: Hôn định thần tỉnh, nghĩa là buổi hôm phải hầu cha mẹ cho định giấc ngủ, buổi sáng phải thăm cha mẹ xem có được yên không.
XUÂN NHỚ MẸ
(Sa Môn Thích Quảng Độ)
Mỗi lần xuân đến gợi thêm sầu
Con ở phương này Mẹ ở đâu
Nam Bắc đôi bờ dòng nước bạc
Trông vời bóng Mẹ khuất ngàn dâu
Con đi từ độ trăng tròn ấy
Trải mấy xuân rồi xuân viễn phương
Trên vạn nẻo đường con cất bước
Cõi lòng vương nặng mối sầu thương
Mái đầu Mẹ nhuộm mầu sương tuyết
Chồng chất đôi vai lớp tuổi đời
Con muốn thời gian ngừng đọng lại
Cho mùa xuân Mẹ mãi xanh tươi
Thời gian vẫn cứ lạnh lùng trôi
Hoa úa tàn phai trái chín mồi
Chua xót lòng con niềm hiếu đạo
Chân trời xa cách lệ tuôn rơi.
Giáp Thìn (1964)
Sa Môn Thích Quảng Độ
TÂM CỰC LẠC
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Tây phương Lạc quốc với Sa bà
Đường về khoảng cách độ bao xa?
Không gian cõi Phật mười muôn ức (*)
Nhưng là khoảnh khắc tại tâm ta
Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta
Gió thổi vi vu khúc nhạc hòa
Chim hót vang rền tuyên diệu pháp
Lưng trời đổ xuống trận mưa hoa
Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta
Phật phóng hào quang chói sáng lòa
Chín phẩm sen hồng hương ngát tỏa
Thánh hiền tụ hội số hằng sa
Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta
Sen nở vừa xong thấy Phật đà
Cực lạc đây rồi: Tâm ta đó
Rời tâm tìm kiếm lại càng xa
Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta
Trở lại sinh trong cảnh ác tà
Lăn lộn nổi chìm đời ngũ trược
Nhưng mà ta vẫn lại là ta.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Mười muôn ức cõi Phật là một trăm vạn triệu cõi Phật, mỗi cõi Phật là một nghìn triệu thế giới, mỗi thế giới gồm một quả đất, một mặt trời, một mặt trăng. Như vậy cách nhau xa lắm. Nhưng đối với Phật pháp vô biên thì có gì là xa, vì vô biên thì không có trung tâm điểm mà chỗ nào cũng là trung tâm cả, thành ra không có xa, không có gần.
ĐỈNH CHƠI VƠI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Chiều thu nhè nhẹ lá vàng rơi
Cánh nhạn tung bay vút tận trời
Vẳng tiếng chuông chùa xa vọng lại
Chờ hồn lên mãi đỉnh chơi vơi
Hồn say cảnh trí đỉnh chơi vơi
Trăng tỏa hào quang đẹp tuyệt vời
Ngoảnh lại hồng trần ngao ngán nỗi
Đêm dài mây phủ khắp nơi nơi
Trăng thu nghiêng bóng gọi hồn tôi
Trần thế lênh đênh mấy độ rồi
An dưỡng quê xưa quên trở lại
Bình bồng trôi dạt đến bao thôi?
Tôi lỡ sinh ra giữa cuộc đời
Mênh mông nước mắt biển đầy vơi
Đường về quê cũ dừng chân tạm
Để với nhân gian góp nụ cười.
Sa Môn Thích Quảng Độ
VÔ THƯỜNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Qua kẽ xà lim chỉ mấy ly
Nhìn ánh triêu dương thật diệu kỳ
Thế giới ba nghìn đang chuyển động
Trong từng mảy bụi nhỏ li ti
Trên cành lá đọng giọt sương mai
Hạt ngọc lung linh ánh sáng ngời
Cơn gió thoảng qua cành lay động
Đột nhiên tan biến một thân người
Giây phút thời gian cứ đẩy xô
Giành giật cùng tôi một trận đồ
Mỗi lần nghe nhịp tim tôi đập
Tôi tiến gần hơn đến nấm mồ
Tà dương rơi rớt sau núi tây
Thế sự bình bồng theo áng mây
Thời giờ trôi chảy như dòng nước
Tóc bạc lúc nào tôi không hay
Ngồi buồn tôi nhớ đến Hạng vương
Lấp biển dời non sức chẳng thường
Một thoáng cơ đồ sương ngọn cỏ
Nghì thu uất hận sóng Ô giang
Ngồi buồn tôi lại nhớ Thủy hoàng
Sự nghiệp kinh thiên “vạn lý tràng” (1)
Đom đóm lập lòe soi vết cũ
Sa khâu (2) lạnh lẽo nắm xương tàn.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Tức Vạn lý trường thành, một công trình đã khiến cho hàng trăm nghìn người bỏ mạng.
(2) Sa là cát, khâu là gò, tức gò cát hoặc nấm mộ của cát (TV chú)
KIẾP NGƯỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Trăng năm bóng sáng thoáng qua mau
Mới đó mà nay đã bạc đầu
Giở cuốn sổ đời ra tính lại
Hai bàn bay trắng có chi đâu
Có nữa chăng là nấm cỏ khâu
Đìu hiu dầu dãi dưới trăng thâu
Vù vù gió thổi đồng hoang lạnh
Văng vẳng xa đưa tiếng dế sầu
Tranh vương tranh bá với công hầu
Nước chảy tràn sông máu đượm mầu
Những tưởng cuộc đời bền vững mãi
Nào ngờ bãi biển hóa nương dâu
Sớm còn tối mất kiếp phù du
Một thoáng đi rồi biệt vạn thu
Con đường trước mặt chia trăm ngả
Chỉ thấy sương đêm phủ mịt mù.
Sa Môn Thích Quảng Độ
CUỘC HÀNH TRÌNH
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Ba vạn sáu nghìn ngày
Gió thoảng áng mây bay
Mênh mông lòng sa mạc
Từ đâu người đến đây
Giữa trưa hè nắng cháy
Dưới trời cát trắng này
Chập chờn hình ảo ảnh
Mơ màng nửa tỉnh say
Người đi tìm dòng nước
Người đi tìm bóng cây
Đưa mắt tìm bốn hướng
Đâu Nam Bắc Đông Tây?
Tất cả đều mờ mịt
Chỉ thấy xương phơi đầy
Cuộc hành trình nóng bỏng
Thiêu đốt mảnh thân gầy
Kiệt sức người nằm xuống
Nhắm mắt buông hai tay
Hoang vu lòng sa mạc
Gió thổi cát tung bay.
Sa Môn Thích Quảng Độ
TÌM ĐÂU LỐI VÀO
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm khuya gió rít giữa trời sao
Cuồn cuộn ngoài khơi lớp sóng trào
Phiền não luân hồi tuồng ảo ảnh
Vô thường sinh tử cảnh chiêm bao
Bồ đề trăng sáng soi lồng lộng
Bát nhã sen thơm tỏa ngạt ngào
Giải thoát Niết bàn không tịch tướng
Người biết tìm đâu được lối vào?
Sa Môn Thích Quảng Độ
NGHĨA CÓ KHÔNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Bao năm nghiền ngẫm nghĩa có-không
Đến nay tôi thấy vẫn chưa thông
Vạn pháp vốn không, không hóa có
Thân tâm dù có, có thành không
Bồ đề phiền não, không rồi có
Niết bàn sinh tử, có lại không
Chứng được nghĩa không, không có có
Ngộ xong lý có, có không không
Nghĩa có không
Rất khó thông!
Sa Môn Thích Quảng Độ
TU ĐẠO
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Bao năm học đạo với tu trì
Tính lại, ngày nay biết, được gì?
Được có một điều “không gì được”
Biết cùng cái lý “chẳng biết chi!”
Đi đứng nằm ngồi thường không khác
Uống ăn ngủ nghỉ vẫn như ri
Ma nghe nhếch mép cười mai mỉa
« Thế thì tu đạo để làm chi? »
Tôi cười khì: « Để như ri! »
Sa Môn Thích Quảng Độ
TIẾNG HỒNG CHUNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Chiều xuân mây bạc nối bình bồng
Thế sự thăng trầm cuộc sắc không
Danh lợi trắng ngần bông huệ bạch
Nhục vinh đỏ thắm đóa hồng nhung
Đắc thất khoe hương nhành dạ lý
Thịnh suy phô sắc cánh phù dung
Cõi lòng vắng lặng nghe văng vẳng
Ngân dài cao vút tiếng hồng chung.
Sa Môn Thích Quảng Độ
MÙI THIỀN
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Giờ phút trầm tư nếm vị Thiền
Lâng lâng không bợn chút ưu phiền
Ngục thất dầu sôi thành cam lộ
Lao tù lửa bỏng hóa hồng liên
Gông cùm giam hãm ngoài tam giới
Xiềng xích buộc ràng vượt cửu thiên
Sống chết vui buồn tâm tự tại
Cành dương rửa sạch nghiệp oan khiên.
Sa Môn Thích Quảng Độ
XUÂN KHỨ BÁCH HOA LẠC
Thiền sư Mãn Giác (*)
Quảng Độ phụng dịch
Xuân đi hoa rụng rã rời
Xuân về hoa nở nụ cười thắm tươi
Thoáng qua trước mắt việc đời
Trên đầu mái tóc bạc rồi không hay!
Xuân tàn, hoa hết? Lầm thay!
Đêm qua sân trước nhành mai nở bừng!
(*) Nguyên tác :
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
(Thiền sư Mãn Giác)
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Thiền sư Mãn Giác (1052-1096), thế sanh Lý Trường, còn có tên Hoài Tín hoặc Trưởng lão Sùng Tín. Cáo tật thị chúng, nghĩa là có bệnh, bảo với mọi người.
THUYỀN ĐỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Ráng chiều giăng mắc ven trời
Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ
Đi tìm nơi đậu bến mơ
Không gian biển rộng cõi bờ mù khơi.
Sa Môn Thích Quảng Độ
THÂN NGƯỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Chiều thu khói quyện mái tranh
Đung đưa gió nhẹ trên cành lá rơi
Vương vương mấy sợi tơ trời
Nhìn theo cứ tưởng bóng người thoáng qua.
Sa Môn Thích Quảng Độ
CÚ GỌI MA
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Ngoài hiên mờ nhạt ánh trăng tà
Tôi nằm nghe cú gọi hồn ma
Bình minh sắp dậy đêm hồ hết
Trở lại đường về ta với ta.
Sa Môn Thích Quảng Độ
AI GỌI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao?
Cánh gió đưa qua lá xạc xào
Cửa sắt xà lim ngăn gió lại
Sợ làm tan vỡ cuộc chiêm bao.
Sa Môn Thích Quảng Độ
HƯ VÔ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Tâm như nắm tro tàn
Thân như cành củi khô
Lần lữa hết ngày tháng
Trở về với hư vô.
Sa Môn Thích Quảng Độ
VỀ ĐÂU
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Hoàng hôn buông xuống cảnh phù trần
Le lói tà dương bóng khuất dần
Chim đàn lũ lượt bay về tổ
Ta biết về đâu hỡi thế nhân?
Sa Môn Thích Quảng Độ
TỦI CUỘC ĐỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Bầu trời xanh thẳm nhạn bay chơi
Cao rộng thênh thang sướng tuyệt vời
Nghĩ mình thân phận không bằng nhạn
Thấy nhạn càng thêm tủi cuộc đời.
Sa Môn Thích Quảng Độ
TIM ĐỘNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Màn đêm dày đặc phủ xà lim
Có vật gì rơi giữa khoảng im
Lắng mãi tôi nghe rồi mới biết
Thì ra tiếng động của con tim.
Sa Môn Thích Quảng Độ
CHIỀU NGHE NHẠN KÊU
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Chiều buồn nghe tiếng nhạn reo
Thả hồn Thục đế bay theo mây ngàn
Bình bồng trôi khắp nhân gian
Bạn cùng trăng gió cho tan sầu đời
Hồn lên tận cõi chơi vơi
Hỏi nàng Chức nữ: “Cung trời buồn? Vui?
Châu rơi nàng bỗng sụt sùi
Rằng: “Đây cũng khổ như người trần gian
Tháng ngày thiếu vắng Ngưu Lang
Đơn côi chiếc bóng chứa chan lệ sầu!
Hồn nghe cau mặt lắc đầu:
“Cõi trời mà thế tìm đâu hết buồn?”
Biệt nàng hồn vội đi luôn
Xà lim trở lại hồn buồn hơn xưa
Ngoài trời tầm tã cơn mưa
Giật mình tỉnh dậy giấc mơ vừa tàn
Nhớ câu “Tam giới vô an” (*)
Chỉ còn một cảnh Niết bàn yên vui.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Ba cõi như nhà cháy không yên ổn. Chữ trong Kinh Pháp Hoa.
ĐỐ AI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm nay buồn lắm trăng ơi
Mời trăng ghé bóng vào chơi đỡ buồn
Xà lim lạnh thấm con hồn
Muốn trăng chia sẻ nỗi buồn thiên thu
Trần gian bóng tối phủ mờ
Có trăng hồn cũng nên thơ dạt dào
Tầm dương vẳng khúc Li tao
Ngàn xưa hung khí ngàn sau vẫn còn
Âm vang như gọi con hồn
Đêm khuya réo rắt trên cồn đìu hiu
Dưới trăng cành lá dập dìu
Bóng ai thấp thoáng theo chiều gió đưa
Giật mình tôi tỉnh cơn mơ
Tìm trăng nào thấy chỉ trơ có mình
Trăm năm trong cuộc tử sinh
ĐỐ AI biết được chính mình là ai?
Hồn ai trong giấc mộng dài?
Bóng ai thấp thoáng tiếng ai trên cồn?
Đêm khuya thấm lạnh ai buồn?
Trăng nào chia sẻ nỗi buồn cùng ai?
Đời như một giấc mộng dài
Vui buồn trong mộng đố ai biết mình?
Sa Môn Thích Quảng Độ
XUÂN SANG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Rộn ràng tiếng én báo xuân sang
Lòng tôi nguội lạnh nắm tro tàn
Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm
Giang sơn phủ kín lớp màu tang
Áp bức đọa đày đời khổ nhục
Đói nghèo rách nát kiếp lầm than
Thẫn thờ đứng tựa khung cửa ngục
Nhìn bóng xuân sang mắt lệ tràn.
Sa Môn Thích Quảng Độ
GIẤC MƠ LẠ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Tôi vừa chợp mắt giữa đêm đông
Bỗng thấy cơn mơ rất lạ lùng
Sao rụng từng chòm rơi lả tả
Trăng tan thành mảnh rớt lung tung
Trái đất cháy bùng như hòn lửa
Mặt trời nguội ngắt tựa thoi đồng
Trần gian phút chốc thành mây khói
Tôi đứng chơi vơi giữa khoảng không!
Sa Môn Thích Quảng Độ
XUÂN CẢM
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Xuân đã về đây với khổ đau
Tôi nằm thổn thức suốt đêm thâu
Hương xuân thoang thoảng mùi xác chết
Xông ngát tim tôi vạn cổ sầu
Xuân đi tóc chửa phai màu
Giờ xuân trở lại mái đầu điểm sương
Gió xuân reo khúc đoạn trường
Mưa xuân giọt lệ sầu thương chan hòa
Vườn xuân nào thấy bóng nhành hoa
Chỉ thấy vàng hoe lớp cỏ già
Cây đứng đau buồn nhìn lá rụng
Xơ xác cành khô dưới ánh tà
Sương xuân tê tái làn da
Đêm xuân giấc mộng hồn ma chập chờn
Ngày xuân rợp bóng tử thần
Tháng xuân nghĩa địa mộ phần thêm xuân
Đâu đâu cũng thấy đậm mầu xuân
Ảm đạm thê lương nhuộm hồng trần
Người người ủ rũ ngồi than khóc
Xiêm y tuyết trắng phủ toàn than
Khắp nơi bàng bạc dáng xuân
Mặt mày hốc hác áo quần tả tơi
Vẻ xuân tắt ngấm nụ cười
Nắng xuân đốt cháy thân người thành than
Hồ xuân nước cạn đất phơi gan
Sen chỉ còn trơ đám gốc tàn
Tôm cá chết khô nằm nghiêng ngửa
Mùi tanh nồng nặc vẫn chưa tan
Đồng xuân lúa mạ úa vàng
Dàu dàu cỏ dại lan tràn nơi nơi
Đường xuân thưa thớt bóng người
Thôn xuân quạnh quẽ như thời hồng hoang
Tù xuân như chợ giữa trần gian
Họp mặt đông vui đủ khách hàng
Cụ già sù sụ ho giòn giã
Con nít oe oe khóc nhịp nhàng
Trường xuân sĩ tử rộn ràng
I tờ lớp lớp xếp hàng đồng ca
O tròn như quả trứng gà
Ô thì có mũ ơ đà thêm râu
Mùa xuân “rực rỡ” đủ màu!
Sa Môn Thích Quảng Độ
TRANG TRÀO PHÚNG
TỰ TRÀO I
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Quảng Độ là mi mi biết chưa
Vóc dáng xem ra kể cũng vừa
Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp
Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa
Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học
Tính này nóng nảy vẫn không chừa
Năm nay tuổi tác vừa năm chục
Tù ngục hai lần đã sướng chưa? (*)
Tù ngục hai lần đã sướng chưa?
Tại sao ta hỏi mi không thưa?
Đạo pháp cơ đồ sương buổi sớm
Quỉ ma sự nghiệp nắng ban trưa
Túi cơm tín thí ngày thêm nặng
Giá áo đời mi sống cũng thừa
Sinh tử vô thường ai tránh khỏi
Chết quách cho xong thế cũng vừa.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Năm 1963, bị chế độ Ngô Đình Diệm bỏ tù vì chống họ Ngô đàn áp Phật giáo.
Lần này (1977) lại bị Cộng sản bỏ tù vì chống Cộng sản đập tượng phá chùa và bắt bớ Tăng Ni Phật tử.
TỰ TRÀO II
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Quảng Độ tên mi quê ở đâu?
Thái Bình, Tiền Hải, xã Thanh Châu
Dốt đặc cán mai mà vênh mặt
Khôn nhà dại chợ lại lên râu
Nhìn đời “tiến bộ” giương mắt ếch
Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu
Thôi về xếp áo đi tập hát
Theo làm hề xiếc với ông bầu
Theo làm hề xiếc với ông bầu
Xôm trò mi đóng vở tuồng Tàu
Lưu Bị ra công hưng nghiệp Hán
Khổng Minh giúp sức diệt quân Tào
Triệu Tử dọc ngang con tuấn mã
Vân Trường vùng vẫy thanh long đao
Áo mão râu ria coi hiển hách
Hí trường tỏ mặt đấng anh hào!
Sa Môn Thích Quảng Độ
THƠ LƯU ĐÀY
Từ ngày 25.02.1982 đến ngày 22.03.1992
(từ 2 tháng 2 năm Nhâm Tuất đến 20 tháng 2 năm Nhâm Thân)
NGUYỆN CẦU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Hỡi trời cao đất dày
Có thấu cho cảnh này
Mẹ tôi tội tình gì
Phải chết trong lưu đày
Trong cô đơn hiu quạnh
Trong buồn tủi đắng cay
Thôi cõi đời ác độc
Mẹ vĩnh biệt từ đây
Con nguyện cầu hồn Mẹ
Vãng sinh về phương Tây
Phật Di Đà tiếp dẫn
Chư Bồ Tát dìu tay
Trong hoa sen tinh khiết
Hồn Mẹ hóa sinh ngay
Vòng luân hồi chấm dứt
Vĩnh viễn được yên vui.
Đêm 14 tháng 12 Ất Sửu
(23 tháng 1 năm 1985)
Sa Môn Thích Quảng Độ
MẤT CẢ CUỘC ĐỜI
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Xuân này tôi mất Mẹ rồi
Cũng là mất cả cuộc đời còn chi
Từ nay đoạn đường tôi đi
Qua hàng thông lạnh gió vi vu sầu
Một mình lặng lẽ cúi đầu
Quanh tôi tất cả nhuộm màu tóc tang
Bước đi nghĩa địa lan man
Chết rồi hay sống điêu tàn như nhau.
Sáng Mồng 1 Tết Bính Dần (1985)
Ra thắp hương ngoài mộ.
Sa Môn Thích Quảng Độ
TỰ THUẬT
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Sống giữa trần ai cảnh phũ phàng
Con thuyền lướt sóng cứ hiên ngang
Đã tùng đâu sợ làn sương trắng
Là cúc nào kinh trận gió vàng (*)
Trúc hát du dương khi Hè đến
Mai cười tươi tắn lúc Đông sang
Mặc cho mưa nắng cùng giông tố
Một tấc lòng son trọn đá vàng.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Gió vàng: Dịch chữ “kim phong”. Mùa Thu thuộc hành Kim, nên gió thu gọi là kim phong, tức gió heo may. Hoa cúc thường nở vào tiết Trùng Dương (9 tháng 9 âm lịch) qua mùa Thu là tàn. Hoa mai, trái lại, nở vào mùa Đông.
TRÊN ĐƯỜNG LƯU ĐÀY
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Ngày mồng 2 tháng 2 năm Nhâm Tuất (Dương lịch 25-02-1982)
Từ Sài Gòn tôi lên đường đi miền Bắc lưu đày
Trên chiếc xe “ca” của nhà tù Cộng Sản
Tôi cảm thấy mình xót xa vô hạn
Bỏ lại phía sau bao vạn tấm lòng
Hẳn rồi đây sẽ mòn mỏi chờ mong
Nhưng chưa biết đến ngày nào tái ngộ
(Mà quyết định phải có ngày tái ngộ)
Miền Nam ôi! Tôi đã nghe niềm đắng cay tủi hổ
Sống đọa đày như loài thú hai chân
Dưới bàn tay của những kẻ vô thần
Đạo pháp tan hoang giang sơn rách nát
Thời đại hôm nay mà tôi cứ tưởng là thời Thát Đát
Với Thành Cát Tư và Hốt Tất Liệt xa xưa
Lịch sử bốn nghìn năm, ôi chưa từng thấy bao giờ
Cảnh người Việt dày xéo quê hương đất Việt
Hai mươi triệu đồng bào rên xiết
Trong gông cùm khóc nỗi tử biệt sinh ly
Miền Nam ôi! Thôi hãy tạm quên đi mối sầu bi
Và cố vui sống để nhìn về phía trước
Dẫm lên khổ đau, tất cả chúng ta cùng tiến bước
Và hẹn một ngày đất nước hồi sinh
Giờ phút này đây đánh dấu cuộc đăng trình
Về miền Bắc, tôi nguyện sẽ không bao giờ khuất phục
Những kẻ chỉ biết tin nơi bạo lực
Nuôi hận thù và giết chết tình thương
Đường tôi đi, buổi sáng nay tràn ngập ánh thái dương
Và cảnh vật reo vui chào tiễn biệt
Miền Nam ôi! Niềm nhớ thương nói sao cho xiết
Thôi xin tạm biệt người và hẹn hội mùa Xuân.
Nha Trang đêm 25.2.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
QUA ĐÈO HẢI VÂN
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Trơ vơ đỉnh núi hắt hiu buồn
Mây về bao phủ cảnh hoàng hôn
Gió thét hung tàn vang ác thú (1)
Sóng gào uất hận vọng oan hồn (2)
Đạo pháp tiêu điều lòng thổn thức
Giang sơn ảm đảm dạ bồn chồn
Vân Hải chiều nay sầu Tô Tử (3)
Đường dài mang nặng nỗi hàn ôn (4)
Chiều ngày 27.2.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Tiếng gió hú trên đỉnh núi nghe rùng rợn như tiếng gầm của một con mãnh thú từ thung lũng nào dội lại.
(2) Những đợt sóng bạc đầu vỗ vào bãi biển ầm ầm nghe như những tiếng gào thét của oan hồn người vượt biên chết đuối từ lòng đại dương vọng về.
(3) Tức Tô Vũ tự Tử Khanh, làm Lang Trung Tướng đời Hán Vũ Đế, đi sứ Hung Nô, không khuất phục, bị vua Hung Nô đày đi Bắc Hải bắt chăn dê suốt 19 năm nhưng vẫn một lòng trung thành với nhà Hán. Vì luật thơ nên Hải Vân phải đảo ngược thành Vân Hải.
(4) Hàn ôn, nghĩa đen là lạnh ấm, ở đây là nỗi niềm tâm sự của kẻ đi đày.
ĐÊM NGỦ TẠI HUẾ
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm nay buồn thảm ngập Hương Giang
Chia sẻ cùng ai gánh đoạn tràng
Trằn trọc vừa nguôi cơn sửng sốt
Chập chờn lại tỉnh giấc mơ màng
Ất Mão chưa quên niềm uất hận (1)
Mậu Thân còn nhớ nỗi kinh hoàng (2)
Bãi mồ tập thể nằm đâu đó (3)
Giờ này chắc hẳn đã tan hoang!
Đêm 27.2.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) 1975
(2) 1968
(3) Bãi mồ tập thể của các nạn nhân Tết Mậu Thân đã bị hốt đi để lấy chỗ làm thủy lợi!
QUA CẦU HIỀN LƯƠNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Chiều hôm le lói ánh tà dương
Đã vượt quan san nửa dặm trường (1)
Ngó lại trời Nam lầm bụi khói
Trông về đất Bắc tỏa mù sương
Bến Hải đôi bờ sầu kim cổ
Hiền Lương mấy nhịp nhuộm tang thương
Một thuở Hồng Câu còn in dấu (2)
Giờ đây hồn mộng vẫn tơ vương.
Chiều 28.2.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Đường về miền Bắc đến đây coi như đã được nửa
(2) Hồng Câu: Đường ranh giới chia đôi Hán, Sở. Theo Hiệp Định Genève năm 1954, sông Bến Hải đã là đường giới tuyến quân sự tạm thời chia đôi hai miền Nam Bắc. Ngày nay tuy đã được thống nhất, nhưng dấu vết chia cắt vẫn còn đó, khiến người ta đi qua không khỏi bùi ngùi thương cảm.
QUA ĐÈO NGANG (1)
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Tôi tới Đèo Ngang cảnh tối mò
Cỏ hoa chẳng thấy, thấy rùa bò (2)
Tiếng “quốc” tiếng “gia” im bặt cả
Chỉ nghe tiếng máy rống ò ò
Non nước đất trời đều mù mịt
Tình riêng riêng gửi muỗi vo vo
Thời tiết đêm xuân mà lạnh ngắt
Chăn mền chẳng có, ngồi co ro
Đảm bảo an toàn trong giá rét
Mỗi bên “ôm ấp” một ông cò (3)
Thây kệ đêm đen và dốc đá
Lên Đèo tôi cứ ngáy o o!
Đêm 29.2.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Qua đây tôi nhớ tới bài thơ của bà Huyện Thanh Quan, nhưng lại trong một hoàn cảnh khác hẳn, nên tôi đã làm bài thơ này.
(2) Rùa bò: Xe đi chậm như rùa vì để số 1.
(3) Suốt từ Sài Gòn ra đến thị xã Thái Bình, lúc nào cũng có hai anh công an thường phục ngồi kèm hai bên cạnh tôi.
QUA CẦU HÀM RỒNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Bấy lâu nghe tiếng cảnh Hàm Rồng
Mãi đến bây giờ mới được trông
Đen xì mặt sắt cầu hai nhịp
Hung hãn đầu ngao núi một chồng (*)
Xơ xác hàng cây trên bờ ruộng
Tả tơi manh lưới dưới ghềnh sông
Hàm Rồng bỗng trở thành bụng rắn
Ếch nhái chui vào có sướng không?!
Chiều 1.3.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Theo truyền thuyết Trung Hoa, ở phía đông biển Bột Hải có ba quả núi tiên ở là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu; chân núi không dính vào đâu, trời sợ chúng sụt bèn sai mười lăm con ngao (một loại rùa biển) đội lấy để giữ cho núi khỏi sụt. Núi Hàm Rồng ngày xưa gọi là núi Long Đại, người ta tin có tiên ở, do đó cũng có ngao đội. Khi xe chui vào thành cầu, tôi có cảm tưởng như mình đang đi trong bụng một con rắn khổng lồ!
NGÀY ĐẦU LƯU ĐÀY
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Ngày Mồng 7 tháng 2 năm Nhâm Tuất
(Dương lịch 2.3.1982)
Tôi đến chùa Long Khánh xã Vũ Đoài
Vào một buổi chiều xuân nhưng giá lạnh
Tự đáy lòng tôi nghe niềm cô quạnh
Vì từ nay tôi sống cuộc lưu đày
Một số người đã tụ tập nơi đây (*)
Để chào đón “Sư Ông” về cảnh mới
Họ thuộc đủ thành phần đủ lứa tuổi
Trông xanh xao và rách rưới như nhau
Qua những ánh mắt thoáng hiện niềm đau
Họ “hồ hởi” gượng cười gượng nói:
“Báo cáo Sư Ông, ở đây chúng tôi tuy nghèo đói
Nhưng tấm lòng vì cách mạng rất bao la
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác và Đảng ta
Chúng tôi đã hy sinh hết cả cửa nhà
Cả thân mệnh của ông cha con cháu
Tất cả đều đã đổ phần xương máu
Để ngày nay có độc lập tự do
Và muôn đời sau nữa sẽ có ấm no
Khi cả loài người bước lên lâu đài cộng sản
Trước mắt, chúng tôi tiến từng giai đoạn
Sản xuất thật nhiều thóc gạo ngô khoai
Chăn nuôi gà vịt lợn nội lợn lai
Tất cả cho hạnh phúc ngày mai
Chúng tôi sẽ làm việc bằng hai bằng bốn
Chùa cảnh ta đây tuy còn nhiều thiếu thốn
Nhưng Sư Ông phải khắc phục khó khăn
Ra sức phấn đấu lao động làm ăn
Để góp phần tăng gia năng suất
Sư Cụ trước đây nay đã khuất
Cũng đã từng sản xuất chăn nuôi
Hằng năm góp cho Đảng mấy chục cân hơi (*)
Và được tặng bằng khen “nuôi heo xuất sắc”
Nói chung Tăng Ni trên toàn miền Bắc
Đều đã góp phần tích cực nuôi heo
Tầm gương sáng ngời Sư Ông nên theo
Để xứng đáng là nhà Sư yêu nước
Trước đây Sư Ông đã lầm đường lạc bước
Thì nay là dịp để “cải chính quy tà”
Với sự khoan hồng và chiếu cố của Đảng ta
Chúng tôi mong Sư Ông sẽ mau giác ngộ!”
Tôi gật đầu và thẫn thờ nhìn họ
Muốn ngỏ đôi câu nhưng chẳng nói nên lời
Một nỗi buồn man mác xâm chiếm hồn tôi
(Mà chẳng phải của riêng tôi nhưng của tất cả những ai vì giang sơn vì đạo pháp)
Màn đêm đang phủ dần trên cảnh chùa điêu tàn mục nát
Đoàn người tả tơi lần lượt ra về
Để lại mình tôi với tâm sự lê thê
Dưới sự canh phòng của những bóng ma lẩn khuất
Tôi lên chùa thỉnh chuông niệm Phật
Ma nấp bên ngoài cứ vểnh tai trâu
Tôi đọc thật to: A DI ĐÀ PHẬT, Phật có chửi ai đâu
Các chú hãy vào dâng hương lạy Phật!
Những bóng ma giật mình vì có tật
Chúng nó nhìn nhau lặng lẽ đi ra
Tiếng chuông trầm hùng vang dội ngân xa
Như gọi tỉnh loài ma lạc hướng.
Tôi cảm thấy niềm bình an thư sướng
Theo tiếng chuông ngân trải khắp ruộng đồng
Tôi hồi chuông rồi trở lại liêu phòng
Kết thúc ngày đầu của cuộc đời phát vãng
Đêm nay hồn tôi sẽ quay về dĩ vãng
Tìm lại giấc mơ trong thuở Lý Trần
Mang về đây thể hiện giữa đêm xuân
Để bình minh dậy non sông bừng ánh đạo
Nước từ bi sẽ giải tan cường bạo
Cho muôn hoa tươi thắm dưới trời Nam.
Đêm 2.3.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
VỊNH CHÙA LONG KHÁNH
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Long Khánh sao mà cảnh tiêu sơ
Khói hương lạnh lẽo tự bao giờ
Dưới án quyển kinh sâu cuốn Tổ
Trên tòa tượng Phật nhện giăng tơ
Câu đối mối xông mùn đắp kín
Hoành phi mọt đục bụi che mờ
Mõ vỡ chuông rè nằm lỏng chỏng
Đứng nhìn tôi những ngẩn cùng ngơ!
Sa Môn Thích Quảng Độ
Ngày 3.3.1982
GỬI TIẾN SĨ SAKHAROV (*)
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Sakharov ôi!
Ông là người Nga, tôi là người Việt
Hai dân tộc, hai phương trời
Nhưng chúng ta cùng cảnh ngộ
Ông dưới chính thể độc tài khủng bố
Tôi dưới chế độ phát xít hung tàn
Ông luôn luôn trong tư thế bất an
Tôi thường xuyên trong tinh thần hồi hộp
Vành móng ngựa ông đã bị điệu đến
Cửa nhà tù tôi đã được đẩy vào
Ông bị tước hết quyền của con người
Tôi được đối xử như là con vật
Ông đã không chịu cứu đầu khuất phục
Nên đấu tranh đòi dân chủ dân quyền
Tôi đã không chịu sống nhục đầu hàng
Nên vận dụng giành tự do tín ngưỡng
Đường ông đi đầy sơn lam khí chướng
Đường tôi đi rặt vách đá cheo leo
Ông gặp đủ loại sói, gấu, hùm, beo
Tôi gặp toàn những rắn, trăn, ưng, ó
Nó trợn mắt phồng mang chìa nanh há mỏ
Muốn vồ chúng ta để xé thịt phanh thây
Nhưng chẳng sợ, đành ngậm đắng nuốt cay
Nó đuổi chúng ta lưu đày phát vãng
Giờ đây tại Gorki, nước Nga, ông thanh thản
Nhìn cuộc đời qua làn tuyết ban mai
Và tại Vũ Đoài, nước Việt, tôi trầm tư
Xem thế sự qua làn sương buổi sớm
Sakharov ôi! Chúng ta tuy đồng hội đồng thuyền
Nhưng trùng dương cách trở từ bên này trái đất
Đêm nay dưới ánh sao mờ qua làn gió thoảng
Tôi gửi mấy lời « cầu chúc bền gan ».
Đêm 25.3.1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Tiến sĩ Andrei Sakharov là một nhà Bác học nổi tiếng, đồng thời, cũng là người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền tại Nga, bị Cộng sản Nga bắt và quản thúc tại Gorki, cách Mạc Tư Khoa về phía Đông bốn trăm cây số.
NHẮN NHỦ KHỔ ĐAU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Khổ đau ôi!
Thôi đừng hù ta nữa, ta biết mi lắm rồi
Ta đã gặp mi trên khắp nẻo đường đời
Và mỗi lần gặp mi ta đều mỉm miệng cười
Và nhìn thẳng mặt mi không hề sợ sệt
Mi thực đáng sợ hơn sự chết
Nhưng với ta cũng chẳng là chi hết
Đừng mơ tưởng vì sợ mi, ta sẽ đổi dời khí tiết
Để cúi đầu trước bạo lực phi nhân
Cứ đọa đầy ta đi cho thỏa tính hung thần
Ta đã nguyện chẳng tiếc gì chiếc thân mộng huyễn
Khổ đau ôi! Mi có nghe giữa dòng đời lưu chuyển
Sóng vô thường đang cuồn cuộn thét vang
Đừng tự hào đã đắc thắng vinh quang
Trên xác chết của loài người bất hạnh
Vì ngu si, mi chẳng biết gì ngoài sức mạnh
Rồi cười vui trên đổ nát điêu tàn
Nhạc mi nghe là những tiếng khóc than
Trà mi nhắp là những giọt lệ tràn
Và rượu mi say là máu đào tươi thắm
Màn trướng mi buông là những vành khăn trắng
Của muôn dân đang quằn quại dưới chân mi
Nghèo đói theo sau mỗi bước mi đi
Gồng cuồng xiết chặt nơi nào mi tới
Ánh bình minh trở thành bóng tối
Phủ mịt mù mọi lối tương lai
Những hài nhi vô tội trong thai
Mi bóp chết dưới chiêu bài nhân mãn
Khổ đau ôi! Mi có nghe những tiếng hờn than oán
Đang vang lên từ phố thị làng quê
Từ hải đảo đến sơn khê
Và tự đáy mồ của những oan hồn vưởng vất
Mi biết không, chẳng có nơi nào trên mặt đất
Trong hư không hay dưới biển sâu
Sẽ tìm ra chỗ trú ẩn dài lâu
Để mi trốn trên trái sầu đã chín
Mà ngày ấy quyết định rồi phải đến
Khi loài người bừng tỉnh khỏi cơn mê.
Đêm Phật Đản Nhâm Tuất, 1982
Sa Môn Thích Quảng Độ
NGẮM TRĂNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm khuya thanh vắng
Tôi ngồi tôi ngắm ánh trăng
Đêm qua mờ
Đêm nay tỏ
Hôm nọ khuyết
Hôm nay tròn
Trăng ôi cách mấy nước non
Có còn thằng cuội có còn cây đa
Trần giới tôi nay tuổi đã già
Dòng đời Tô Vũ cứ trôi qua
Năm canh ấp ủ niềm tâm sự
Biết ngỏ cùng ai hỡi bóng Nga?
Ta với ta
Ta và bóng Nga
Hòa chung nhịp thở
Giữa vũ trụ bao la
Hồn thơ ta bay bổng dạo khắp các Thiên hà
Ba nghìn thế giới trần sa
Thoắt trong một niệm hồn ta trở về
Lại ôm niềm tâm sự với đêm dài lê thê
Hồn còn mang nặng lời thề
Quyết trong bể khổ sông mê vẫy vùng
Dong thuyền Bát Nhã đại hùng
Độ loài Nhất xiển thoát vòng vô minh. (*)
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Nhất xiển: Tức là Nhất xiển đề (Iccantika); kẻ không tin cội phúc, nhân quả, dứt hết căn lành.
HỒN MỘNG VÂN DU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Bên gốc ngọc lan tôi nằm đưa võng
Nhìn mây trời loáng thoáng trôi qua
Đi về đâu giữa đêm bao la
Mây có biết? Riêng tôi chẳng biết
Mây cứ đi không một lời từ biệt
Có lẽ rằng mây đã quên tôi
Tôi nhìn mây vút tận chân trời
Nơi phút giây tôi thả hồn theo cảnh mộng
Đại dương mênh mông gió trăng lồng lộng
Đẩy hồn tôi lên mãi Ngân hà
Tôi sững sờ đứng trước một Nô-va (1)
Lửa ngọn bốc cao rực sáng cả Thiên hà
Và tôi cảm thấy mình
Đang ngập chìm trong hai mươi nghìn độ nóng
Từ muôn kiếp những ước mơ và hoài vọng
Bỗng trong tôi phút chốc tiêu tan
Tôi phóng nhìn bốn hướng khắp không gian
Điệp điệp trùng trùng muôn ngàn thế giới
Trước mắt tôi như mạng lưới Kiều Thi Ca (2)
Tôi vào cung Diệu Thắng chiêm bái Đức Phật Đà
Đang ngự trên tòa Sư tử nguy nga
Giữa Pháp Hội Hoa Nghiêm hơn hai nghìn năm trăm năm trước
Vô lượng chư Thiên vô biên Bồ tát
Rải hoa trời tấu nhạc dâng hương
Tiếng nhạc nhiệm mầu vang động mười phương
Khiến hồn mộng mơ màng sực tỉnh
Trăng lên cao màn đêm thanh tịnh
Mùi ngọc lan phảng phất quanh tôi
Trong phút giây mà đã cách nghìn đời
Ôi! Sinh tử khác gì mộng ảo!
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Nova: Một định tinh rất lớn có thể cháy sáng và ngọn lửa lên cao đến 10.000 cây số và nóng tới 20.000 độ bách phân trước khi vĩnh viễn tắt ngúm, hoặc rực sáng trở lại.
(2) Kiều Thi Ca: Tên gọi khác của trời Đế Thích (Sakra Devanamindra)
(3) Cung Diệu Thắng: Điện của vua Đế Thích trên cung trời Đao Lợi. Đế Thích thỉnh Đức Phật lên nói Kinh Hoa Nghiêm tại đây.
BẮT GẶP CUỘC ĐỜI
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đây rồi! Trong một phút giây kỳ tuyệt
Tôi đã bắt gặp cuộc đời mông mênh sâu thẳm
Tươi đẹp vô ngần mỗi hơi thở thoáng qua
Tôi cảm thấy mình choáng ngợp như đang đi lạc giữa rừng hoa
Bao la bát ngát, tôi chẳng biết nữa Nam Bắc Đông Tây
Ngày giờ hay năm tháng, tất cả chỉ là ánh sáng
Thuần là trăng sao lung linh kỳ ảo
Muôn màu muôn vẻ lặng lẽ tuyệt vời
Cả vũ trụ và tôi hòa đồng hơi thở
Tôi lắng nghe cỏ cây hoa lá trong những màu rực rỡ
Như đàn trẻ thơ đang cười đùa nhảy múa
Và muôn điệu côn trùng tưng bừng hớn hở
Đang hát bản trường ca muôn thuở
Giữa dàn nhạc đại hòa tấu thiên nhiên
Đây cõi thần tiên! Nhưng không phải
Bởi những khái niệm địa ngục thiên đường thần tiên trần tục
Cũng như những cảm giác vui buồn sướng khổ chẳng còn biên cương
Đây là tình thương! Tôi cũng không hiểu nổi
Chỉ biết cái gì là lạ mà chẳng có lời để tả
Đang lan thấm từng thớ thịt làn da
Ôi cuộc đời! Nguồn an tịnh sâu xa
Người là gì? Không ai biết cả
Chỉ có cỏ cây hoa lá
Côn trùng chim muông được tắm gội ơn người
Ôi cuộc đời! Kỳ diệu làm sao!
Xin cảm ơn người vạn tạ!
Sa Môn Thích Quảng Độ
NGẮM HOA (1)
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Hoa với ta ai già ai trẻ
Nhận ra rồi cái lẽ như nhau
Hoa có từ nghìn xưa và sẽ có đến nghìn sau
Ta sinh từ vô thủy và sẽ còn sinh mãi
Tâm đại nguyện, Bồ tát không bao giờ sợ hãi
Đường tử sinh cứ thanh thản đi qua
Ta vân du khắp cõi Sa bà
Và ở đâu, ta cũng thấy hoa tươi thắm
Từng sát na lặng yên ta ngắm
Ta nhìn hoa và hoa nở trong ta
Giữa thăng trầm cuộc thế phù sa
Hoa và ta an nhiên tự tại
Mặc bốn mùa xuân qua đông lại
Trong vĩnh cửu, hoa vẫn tươi và ta mãi chẳng già
Vòng luân hồi tùy nguyện vào ra (2)
Mà ai biết! Chỉ có hoa và ta tri kỷ.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Hoa ở đây tượng trưng Chân như, Pháp thân
(2) Bồ tát vào trong sinh tử là vì nguyện độ sinh chứ không phải bị nghiệp lực chi phối. Nhân lúc cảm hứng mà có tứ thơ trên đây chứ không phải tôi đã là Bồ tát.
HỎI TRĂNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Trăng thu hỡi, đêm nay Rằm tháng Tám
Ta ngồi đây cùng các bạn ngắm trăng
Trăng bao nhiêu tuổi có biết hay chăng
Và quanh trái đất đã xoay vần mấy độ?
Có mang theo mối sầu hoài vạn cổ
Những đêm dài hiu quạnh giữa hư vô?
Qua các đại dương sóng nước nhấp nhô
Trăng có thấy địa cầu rung chuyển?
Trên sa mạc giữa những ảnh hình ảo huyễn
Có nhận ra bóng dáng của loài người?
Và khi băng qua rừng rậm núi đồi
Thấy dấu vết gì của những nền văn minh thuở trước?
Đi giữa cảnh trời mây bến nước
Được như trăng ta mong ước đã từ lâu
Có những đêm ta cùng trăng đi suốt canh thâu
Dạo chơi khắp các tinh cầu rồi trở lại
Hẹn trăng ta sẽ còn gặp nhau mãi mãi
Giữa bầu trời cao rộng những đêm thanh
Trăng ôi xin trọn nghĩa tình.
Sa Môn Thích Quảng Độ
GỬI MÂY
Tặng TT. NH.
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Mây chiều ôi hãy ngừng trôi
Cho ta nhắn gửi mấy lời
Hỏi người góc bể chân trời bấy lâu :
« Trải bao gió Á mưa Âu
Dặm khách sương pha nửa mái sầu?
Non nước nghìn trùng mờ mịt
Cùng ai thao thức những đêm thâu? »
Còn ta nay đã bạc đầu
Ngày tháng trơ trơ một khối sầu
Sợ hãi vui mừng gió thoảng
Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.
Sa Môn Thích Quảng Độ
CẢNH THIỀN
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Lắm lúc buồn phiền muốn phát điên
Hết ngơ hết ngẩn lại tìm Thiền
Thiền không có cửa, hỏi lối lên tiên
Thiên thai mây phủ Đào nguyên sương mờ
Ru hồn vào một cõi mơ
Phút giây tan biến sợi tơ ngang trời
Buồn phiền mặt thật cuộc đời
Trốn đâu cho thoát hỡi người ngẩn ngơ?
Đối đầu trực diện từng giờ
Cuộc đời là một bài thơ tuyệt vời
Cảnh Thiền trước mắt người ơi
Đi tìm chẳng thấy trông vời càng xa!
Sa Môn Thích Quảng Độ
LẠI GẶP TRĂNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Trăng ôi! Đã bao đêm rồi xa vắng
Mãi đêm nay ta mới lại gặp trăng
Đông đã về trăng có nghe chăng
Sầu chưa rụng giá băng tràn mọi nẻo
Sương lạnh buốt cỏ cây khô héo
Ủ mầm non chờ đón tin xuân
Cuộc tuần hoàn muôn thuở xoay vần
Đông sẽ hết và mùa Xuân sẽ tới
Vạn vật chuyển mình qua thời vận mới
Sẽ như trăng trong sáng đêm nay (1)
Giờ phút này trăng hỡi có hay
Dưới chân ta địa cầu đang rung động
Thần tượng nguy nga trong cơn ác mộng
Bừng một sát na sụp đổ tan tành (2)
Trăng ôi! Đêm đông dài nhưng sắp tàn canh
Gà đã gáy và bình minh đang trổi dậy
Ta tạm biệt để rồi đây sẽ thấy
Khắp non sông rực rỡ ánh triêu dương.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(1) Tại miền Bắc, vào những tháng mùa Đông rất hiếm khi có trăng sáng, trời thường u ám, mưa phùn gió bấc. Bài thơ này được làm vào một tối tháng Chạp năm Giáp Tý (1984) trăng rất sáng.
(2) Sát na: Một tích tắc.
TỰ NHỦ
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm nay sao sáng đầy trời
Nhìn sao, ta gẫm cuộc đời xưa nay
Hết đêm thì lại đến ngày
Thịnh suy thành bại vần xoay chẳng ngừng
Đời là thế có chi đáng sợ
Thành cũng vui mà bại cũng là vui
Đã có hên tất phải có xui
Gặp gian nguy đừng bao giờ nản chí
Quân tử thiểu cầu hà hữu dị
Anh hùng đa nạn khởi vi kì (*)
Đường chông gai ta gạt phăng đi
Làm khiếp đảm loài phi nhân bất nghĩa
Đất nước này trải qua nhiều thế kỷ
Chưa bao giờ đổ nát như hôm nay
Nhưng khí thiêng sông núi còn đây
Lý, Trần mộng chắc có ngày trở lại
Dù khó khăn ta không quản ngại
Đem đạo vàng truyền rải khắp non sông
Sắt son thề quyết một lòng.
Sa Môn Thích Quảng Độ
(*) Ý nói đã là người quân tử thì tất nhiên ít tham cầu, và đã là người anh hùng thì tất nhiên phải gặp nhiều hoạn nạn, điều đó không có gì là lạ cả.
Đánh máy: Phật tử Niệm Đức Dương Nghiệp Huân (xem trang thơ của anh)