Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 103 tt: Phẩm So Sánh Công Đức 1

24/10/201607:54(Xem: 12176)
Quyển 103 tt: Phẩm So Sánh Công Đức 1

Nhan CD_tap 3_Kinh Dai Bat Nha


Tập 03
Quyển 103
Phẩm So Sánh Công Đức 1

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 


Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hoặc thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này, thiết bày đủ loại, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... thượng diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường. Hoặc thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v... sau khi Phật Niết-bàn xây dựng Bảo tháp trang nghiêm bằng bảy báu, chứa Xá-lợi Phật trong hòm báu, tôn trí trong ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... thượng diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường. Hai loại phước ấy, phước nào nhiều hơn?

Phật dạy, Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ngươi, nên tùy ý đáp. Theo ý ngươi thì sao? trí nhất thiết trí và thân tướng tốt của Như Lai chứng đắc, do tu học những pháp nào mà được?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết trí và thân tướng tốt của Như Lai đã chứng đắc là do tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà được.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ngươi đã nói, Ta đã tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà chứng đắc trí nhất thiết trí và thân tướng tốt. Kiều Thi Ca! Nếu chẳng học Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là điều không có.

Kiều Thi Ca! Chẳng vì được thân tướng tốt mà gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà chỉ vì chứng đắc trí nhất thiết trí mới gọi là Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Kiều Thi Ca! Trí nhất thiết trí mà Như Lai chứng đắc là do Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm làm nhơn. Cho nên thân tướng tốt của Phật phát khởi chỉ là y cứ nơi ấy. Nếu chẳng y cứ vào đó, thì thân tướng tốt của Phật và trí nhất thiết trí không do đâu mà chuyển hiện. Vì vậy Bát-nhã-ba-la-mật-đa chính là nhơn phát sanh trí nhất thiết trí; để làm cho trí này hiện tiền tương tục thì lại phải tu tập thân tướng tốt của Phật. Thân tướng tốt này, nếu chẳng phải là chỗ nương của biến trí thì tất cả trời, rồng, A-tố-lạc v.v... chẳng nên hết lòng cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Vì thân tướng tốt cùng biến trí của Phật là chỗ y cứ, cho nên các trời, rồng, A-tố-lạc v.v... cung kính cúng dường. Vì duyên cớ này, nên sau khi Ta nhập Niết-bàn các trời, rồng, thần, người, chẳng phải người cung kính cúng dường Xá-lợi của Ta.

Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chỉ đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy đã cúng dường trí nhất thiết trí và đã y chỉ vào Thân tướng tốt của Phật, và Xá-lợi của Phật sau khi Niết-bàn. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết trí, thân tướng tốt và Xá-lợi đều lấy Bát-nhã-ba-la-mật-đa làm căn bản.

Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chỉ đối với Phật thân và Xá-lợi cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, chẳng phải cúng dường trí nhất thiết trí và Bát-nhã-ba-la-mật-đa này. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì di thể của thân Phật chẳng phải là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải là căn bản của trí nhất thiết trí.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nên các thiện nam tử thiện nữ nhơn v.v... muốn cúng dường Phật, hoặc tâm, hoặc thân, trước hết phải lắng nghe thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột thương diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường. Vì vậy cho nên, Kiều Thi Ca! Hoặc có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép, kinh điển thậm thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, thiết bày đủ thứ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... thượng diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường.

Hoặc có thiện nam tử thiện nữ nhơn v.v... sau khi Phật nhập Niết-bàn, xây dựng bảo tháp trang trí bằng bảy báu, đặt Xá-lợi Phật trong hòm báu, tôn trí trong đó, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... thượng diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường. Hai loại phước này, loại phước trước nhiều hơn. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà sanh ra.

Kiều Thi Ca! Vì cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà hiện ra.

Kiều Thi Ca! Vì Chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà hiện ra.

Kiều Thi Ca! Vì Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết trí, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì sự thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật của đại Bồ-tát đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì dòng họ viên mãn, sắc lực viên mãn, của báu viên mãn, quyến thuộc viên mãn của đại Bồ-tát đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà ra vậy.

Kiều Thi Ca! Vì mười thiện nghiệp đạo, cúng dường Sa-môn, phụ mẫu, Sư trưởng và vô lượng thiện pháp như là bố thí, trì giới tu tập v.v... trong thế gian đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì dòng họ lớn Sát-đế-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, dòng họ lớn Trưởng giả, dòng họ lớn Cư sĩ trong thế gian đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại ở trong thế gian đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh trong thế gian đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ trong thế gian đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả Dự-lưu, Dự-lưu quả, Nhất-lai, Nhất-lai quả, Bất-hoàn, Bất-hoàn quả, A-la-hán, A-la-hán quả đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả Độc-giác, quả vị Độc-giác đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả đại Bồ-tát và pháp của đại Bồ-tát đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết trí chẳng thể nghĩ lường, chẳng thể tuyên nói, không gì cao hơn, không gì cao hơn nữa, không gì bằng,  không gì vượt qua, đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế mà xuất sanh.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người ở châu Thiệm bộ, có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm chẳng biết cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì họ đâu biết cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm thì có được lợi ích đại công đức như thế!

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nay Ta hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời. Theo ý ngươi thì sao, trong châu Thiệm bộ có bao nhiêu người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, thành tựu sự chứng tịnh của Pháp, thành tựu sự chứng tịnh của Tăng? Có bao nhiêu người đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi? Có bao nhiêu người hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Trong châu Thiệm bộ có một số ít người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, thành tựu sự chứng tịnh của Pháp, thành tựu sự chứng tịnh của Tăng. Có một số ít người đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi. Có một số ít người hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời, này Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi thì sao, trong châu Thiệm bộ có bao nhiêu người chứng đắc ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề? Có bao nhiêu người chứng đắc ba pháp môn giải thoát? Có bao nhiêu người chứng đắc tám giải thoát? Có bao nhiêu người chứng đắc chín định thứ đệ? Có bao nhiêu người chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt? Có bao nhiêu người chứng đắc sáu phép thần thông? Có bao nhiêu người vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết đắc quả Dự-lưu? Có bao nhiêu người làm mỏng tham, sân, si đắc quả Nhất-lai? Có bao nhiêu người đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn? Có bao nhiêu người đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Trong châu Thiệm bộ có một số ít người chứng đắc ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề. Có một số ít người chứng đắc ba pháp môn giải thoát. Có một số ít người chứng đắc tám giải thoát. Có một số ít người chứng đắc chín định thứ đệ. Có một số ít người chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt. Có một số ít người chứng đắc sáu phép thần thông. Có một số ít người vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự-lưu. Có một số ít người làm mỏng tham, sân, si, đắc quả Nhất-lai. Có một số ít người đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn. Có một số ít người đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán. Có một số ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác. Có số ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ngươi nói. Này Kiều Thi Ca! Trong châu Thiệm bộ, rất ít người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, thành tựu sự chứng tịnh của Pháp, thành tựu sự chứng tịnh của Tăng. Lại càng ít người đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi. Lại càng ít người hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng. Lại càng ít người chứng đắc ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề. Lại càng ít người chứng đắc ba pháp môn giải thoát. lại càng ít người chứng đắc tám giải thoát. Lại càng ít người chứng đắc chín định thứ đệ. Lại càng ít người chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt. Lại càng ít người chứng đắc sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Trong châu Thiệm bộ rất ít người vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự-lưu. Lại càng ít người làm mỏng tham, sân, si, đắc quả Nhất-lai. Lại càng ít người đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn. Lại càng ít người đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Lại càng ít người đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ-đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các loài hữu tình trôi dạt sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay, phần nhiều chẳng gặp Phật, chẳng nghe Chánh pháp, chẳng thân cận Tăng; chẳng hành bố thí, chẳng hộ tịnh giới, chẳng tu an nhẫn, chẳng khởi tinh tấn, chẳng tập tịnh lự, chẳng học Bát-nhã; chẳng nghe bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tu bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng nghe tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng tu tịnh giới Ba-la-mật-đa; chẳng nghe an nhẫn Ba-la-mật-đa,chẳng tu an nhẫn Ba-la-mật-đa; chẳng nghe tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng tu tinh tấn Ba-la-mật-đa; chẳng nghe tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng tu tịnh lự Ba-la-mật-đa; chẳng nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng nghe cái không nội, chẳng tu cái không nội; chẳng nghe cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, chẳng tu cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; chẳng nghe chơn như, chẳng tu chơn như; chẳng nghe pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng tu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng nghe Thánh đế khổ, chẳng tu Thánh đế khổ; chẳng nghe Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng tu Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nghe bốn tịnh lự, chẳng tu bốn tịnh lự, chẳng nghe bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nghe tám giải thoát, chẳng tu tám giải thoát; chẳng nghe tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nghe bốn niệm trụ, chẳng tu bốn niệm trụ; chẳng nghe bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chẳng nghe pháp môn giải thoát không, chẳng tu pháp môn giải thoát không; chẳng nghe pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nghe năm loại mắt, chẳng tu năm loại mắt; chẳng nghe sáu phép thần thông, chẳng tu sáu phép thần thông; chẳng nghe mười lực của Phật, chẳng tu mười lực của Phật; chẳng nghe bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nghe pháp không quên mất, chẳng tu pháp không quên mất; chẳng nghe tánh luôn luôn xả, chẳng tu tánh luôn luôn xả; chẳng nghe tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng nghe tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nghe trí nhất thiết, chẳng tu trí nhất thiết; chẳng nghe trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Kiều Thi Ca! Vì duyên cớ ấy, nên biết ở trong châu Thiệm bộ này, rất ít người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, thành tựu sự chứng tịnh của Pháp, thành tựu sự chứng tịnh của Tăng. Lại càng ít người đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi. Lại càng ít người hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng. Lại càng ít người chứng đắc ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề. Lại càng ít người chứng đắc ba pháp môn giải thoát. Lại càng ít người chứng đắc tám giải thoát. Lại càng ít người chứng đắc chín định thứ đệ. Lại càng ít người chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt. Lại càng ít người chứng đắc sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Nên biết, trong châu Thiệm bộ này, rất ít người vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự-lưu. Lại càng ít người làm mỏng tham, sân, si, đắc quả Nhất-lai. Lại càng ít người đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn. Lại càng ít người đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Lại càng ít người đã phát tâm rồi tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ-đề.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Ta nay hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời. Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi thì sao? Ngoài loài người ở châu Thiệm bộ ra, trong thế giới ba lần ngàn này? Có bao nhiêu chúng sanh cung kính cúng dường phụ mẫu, sư trưởng? Có bao nhiêu chúng sanh cung kính cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn? Có bao nhiêu chúng sanh hành bố thí, thọ trai, trì giới? Có bao nhiêu chúng sanh tu mười thiện nghiệp đạo? Có bao nhiêu chúng sanh đối với các dục trụ tưởng nhàm chán, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng vui? Có bao nhiêu chúng sanh tu bốn tịnh lự? Có bao nhiêu chúng sanh tu bốn vô lượng? Có bao nhiêu chúng sanh tu bốn định vô sắc? Có bao nhiêu chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tăng? Có bao nhiêu chúng sanh đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi? Có bao nhiêu chúng sanh hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng? Có bao nhiêu chúng sanh tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề? Có bao nhiêu chúng sanh tu ba pháp môn giải thoát? Có bao nhiêu chúng sanh tu tám giải thoát? Có bao nhiêu chúng sanh tu chín định thứ đệ? Có bao nhiêu chúng sanh tu bốn sự hiểu biết thông suốt? Có bao nhiêu chúng sanh tu sáu phép thần thông? Có bao nhiêu chúng sanh vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự-lưu? Có bao nhiêu chúng sanh làm mỏng tham, sân, si, đắc quả Nhất-lai? Có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn? Có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán? Có bao nhiêu chúng sanh phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác? Có bao nhiêu chúng sanh phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Có bao nhiêu chúng sanh đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ-đề? Có bao nhiêu chúng sanh trau dồi trưởng dưỡng hướng đến tâm Bồ-đề? Có bao nhiêu chúng sanh phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa? Có bao nhiêu chúng sanh được an trụ Bồ-tát bất thối chuyển? Có bao nhiêu chúng sanh mau chứng quả vị giác ngộ cao tột?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Ở trong thế giới ba lần ngàn này có ít chúng sanh cung kính cúng dường phụ mẫu, sư trưởng. Có ít chúng sanh cung kính cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn. Có ít chúng sanh hành bố thí, thọ trai, trì giới. Có ít chúng sanh tu mười thiện nghiệp đạo. Có ít chúng sanh đối với các dục, trụ tưởng nhàm chán, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui. Có ít chúng sanh tu bốn tịnh lự. Có ít chúng sanh tu bốn vô lượng. Có ít chúng sanh tu bốn định vô sắc. Có ít chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Có ít chúng sanh đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi. Có ít chúng sanh hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng. Có ít chúng sanh tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề. Có ít chúng sanh tu ba pháp môn giải thoát. Có ít chúng sanh tu tám giải thoát. Có ít chúng sanh tu chín định thứ đệ. Có ít chúng sanh tu bốn sự hiểu biết thông suốt. Có ít chúng sanh tu sáu phép thần thông. Có ít chúng sanh vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự-lưu. Có ít chúng sanh làm mỏng tham, sân, si, đắc quả Nhất-lai. Có ít chúng sanh đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn. Có ít chúng sanh đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán. Có ít chúng sanh phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác. Có ít chúng sanh phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Có ít chúng sanh đã phát tâm rồi, tinh tấn tu tập hướng đến hạnh Bồ-đề. Có ít chúng sanh trau dồi trưởng dưỡng hướng đến tâm Bồ-đề. Có ít chúng sanh phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Có ít chúng sanh được an trụ bậc Bồ-tát Bất thối chuyển. Có ít chúng sanh mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng vậy! Như ngươi đã nói. Này Kiều Thi Ca! Ở trong thế giới ba lần ngàn này, rất ít chúng sanh cung kính cúng dường phụ mẫu, sư trưởng. Lại càng ít chúng sanh cung kính cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn. Lại càng ít chúng sanh hành bố thí, thọ trai, trì giới. Lại càng ít chúng sanh tu mười thiện nghiệp đạo. Lại càng ít chúng sanh đối với các dục trụ tưởng nhàm chán, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng vui. Lại càng ít chúng sanh tu bốn tịnh lự. Lại càng ít chúng sanh tu bốn vô lượng. Lại càng ít chúng sanh tu bốn định vô sắc. Lại càng ít chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Lại càng ít chúng sanh đối với Phật không nghi, đối với Pháp không nghi, đối với Tăng không nghi. Lại càng ít chúng sanh hết lòng đối với Phật, hết lòng đối với Pháp, hết lòng đối với Tăng. Lại càng ít chúng sanh tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề. Lại càng ít chúng sanh tu ba pháp môn giải thoát. Lại càng ít chúng sanh tu tám giải thoát. Lại càng ít chúng sanh tu chín định thứ đệ. Lại càng ít chúng sanh tu bốn sự hiểu biết thông suốt. Lại càng ít chúng sanh tu sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Ở trong thế giới ba lần ngàn này, rất ít chúng sanh vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự-lưu. Lại càng ít chúng sanh làm mỏng tham, sân, si, đắc quả Nhất-lai. Lại càng ít chúng sanh đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần, đắc quả Bất-hoàn. Lại càng ít chúng sanh đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần, đắc quả A-la-hán. Lại càng ít chúng sanh phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc-giác. Lại càng ít chúng sanh phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Lại càng ít chúng sanh đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ-đề. Lại càng ít chúng sanh trau dồi trưởng dưỡng hướng đến tâm Bồ-đề. Lại càng ít chúng sanh phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Lại càng ít chúng sanh được an trụ bậc Bồ-tát Bất thối chuyển. Lại càng ít chúng sanh mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ta dùng Phật nhãn thanh tịnh vô ngại quán sát vô số thế giới trong mười phương, tuy thấy có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ-đề, nhưng vì xa lìa Phương tiện thiện xảo của Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm, nên chỉ hoặc một, hoặc hai, hoặc ba hữu tình được an trụ bậc Bồ-tát Bất thối chuyển, còn phần nhiều bị thối đọa vào các bậc Thanh-văn, Độc-giác hạ liệt. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì quả vị giác ngộ cao tột rất khó đạt được, nên những hạng ác tuệ, lười biếng, tinh tấn yếu kém, hiểu biết cạn cợt, hữu tình hèn kém chẳng có khả năng chứng đắc.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... phát tâm quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tinh cần tu tập, hướng đến hạnh Bồ-đề, muốn an trụ bậc Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, không còn vướng mắc tai nạn, nên đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế luôn luôn lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu tập, như lý tư duy, ưa thưa hỏi thầy, thích giảng cho người khác, làm việc này rồi, lại còn phải sao chép, dùng các thứ vật báu để trang nghiêm cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... thượng diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường, thì này Kiều Thi Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với các thiện pháp tù thắng khác đã gồm thâu trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu, cũng phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu tập, như lý tư duy, ưa thưa hỏi thầy, thích giảng cho người khác.

Các thiện pháp thù thắng khác gồm thâu trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu là những pháp gì? Đó là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa; hoặc cái không nội, hoặc cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông; hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc trí nhất thiết, hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đó gọi là các thiện pháp thù thắng thâu trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, đối với vô lượng pháp môn khác như uẩn, xứ, giới v.v... tùy thuận Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm, cũng phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, chẳng nên hủy báng, làm cho quả vị giác ngộ cao tột bị trở ngại.

 

Quyển thứ 103
Hết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8089)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4861)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6145)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8769)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]